NHẬT BẢN DUY TÂN 30 NĂM

Gương cũ nên soi

- Chủ Nhật, 24/05/2015, 07:08 - Chia sẻ
Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản năm 1868 là sự kiện có tính bước ngoặt cho việc xây dựng một nhà nước Nhật Bản hiện đại, mở đầu cho tiến trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa kéo dài 30 năm, đưa Nhật Bản từng bước trở thành quốc gia phát triển độc lập, hiện đại và hùng cường trong khu vực.

Khi nói về thời kỳ này, người ta thường nhắc đến Thiên hoàng Minh Trị, người đặt nền móng cho sự thần kỳ Nhật Bản. Tuy nhiên, phía sau vai trò Thiên hoàng có hay không sự đóng góp của các nhân vật khác? Tại sao trong rất nhiều quốc gia khu vực có chung hoàn cảnh lịch sử, điều kiện xã hội như Nhật Bản lại không có được bước phát triển thần kỳ đó? Những câu hỏi trên đã được giải đáp từ cách đây 80 năm bởi công trình tầm vóc của nhà khảo cứu lịch sử Đào Trinh Nhất, cuốn sách Nhật Bản duy tân 30 năm, vừa được Alpha Books tái bản.

Bằng ngòi bút phê bình sắc sảo pha chất ký sự lịch sử và cách làm việc nghiêm túc, thận trọng, tác giả đã thu thập được những thông tin chính xác, hệ thống về điều kiện địa lý tự nhiên, đặc điểm chủng tộc, các sự kiện lịch sử cùng những nhân vật quan trọng trong giai đoạn này của Nhật Bản; phân tích rõ lý do tại sao Nhật Bản có thể bắt kịp các nước phương Tây chỉ trong 30 năm, trong khi phương Tây phải mất 300 - 400 năm mới đạt được trình độ như vậy. Bằng cái nhìn thận trọng dựa trên những căn cứ xác thực, không tưởng tượng, tác giả đã đặt quốc gia này trong hệ quy chiếu với các nước trong khu vực để thấy rõ căn nguyên tại sao chúng ta đã không thể chuyển mình ngoạn mục như Nhật Bản.

Theo Đào Trinh Nhất, dân tộc Nhật Bản trước hết nhờ sự tin tưởng mình là Thần quốc mà được bền bỉ lâu dài, xưa nay không bị ngoại hoạn; lại nhờ có địa lý hun đúc khiến cho người Nhật có nhiều đức tính tốt như: tự tôn, coi trọng danh dự, thượng võ, hiếu chiến, coi cái chết như không và đặc biệt là biết dung hòa tốt. Sau hết, nhờ chế độ phong kiến đắp đổi đã thao luyện tinh thần, trí hóa cho họ, cho nên đến khi gặp thời thế, phong trào duy tân của họ được nhanh chóng thực hiện và gặt hái thành công.


Ngày nay, nhiều nước châu Âu, châu Á khi nhắc lại dấu tích phong kiến của xã hội mình xưa đều lên án, còn người Nhật khác hẳn, họ cảm mến công đức của chế độ phong kiến trải mấy nghìn năm ở xứ mình. “Phong kiến có công mài dũa tài trí của dân tộc chúng tôi, trau dồi tính cách của dân tộc chúng tôi trở nên khôn ngoan, mạnh bạo lâu đời, đến khi tiếp xúc với phong trào mới, chúng tôi lấn lướt theo kịp ngay, là nhờ vậy đó”. Người Nhật cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo Trung Hoa nhưng họ biết tiếp thu có chọn lọc, không mù quáng theo khoa cử, kinh nghĩa, thi phú và sĩ phu không bị danh lợi của cử nhân, tiến sĩ làm cho mê muội. Họ cũng không mê tín, không tin phong thủy, bói toán, không đốt vàng mã, không tin quỷ thần. Vì thế, khi thấy có Tây học văn minh thì họ không chần chừ, nghi ngại mà theo ngay. Điển hình cho sự khác biệt về tư tưởng này là phụ nữ Nhật Bản có địa vị, được tôn trọng từ rất sớm. Nếu Việt Nam chỉ có duy nhất vị vua nữ Lý Chiêu Hoàng, và cũng chỉ tại vị được hơn một năm, ở Trung Hoa có duy nhất Nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên thì ở Nhật có tới mấy đời Thiên hoàng là nữ. Riêng việc người Nhật thay đổi Hán tự thành chữ viết của riêng mình cũng đủ thấy họ có tinh thần dung hòa ra sao. Và không riêng gì chữ viết, họ cũng dung hòa mọi tri thức, học vấn, nghệ thuật du nhập từ nước ngoài.

Những khảo cứu của Đào Trinh Nhất về thời kỳ khai quốc và công cuộc duy tân đã cho thấy các triều Mạc phủ cũng có công khai hóa, nhất là triều Đức Xuyên (Tokugawa) đã công lo sắp đặt giáo dục, mở mang văn hóa. Và kể từ thời Minh Trị (Meiji), Nhật Bản luôn thể hiện tinh thần quốc dân được khích lệ bởi nhà tư tưởng hàng đầu Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi). Tư tưởng công lợi của người Anh, người Mỹ được Phúc Trạch Dụ Cát ra sức truyền bá, làm cho sĩ phu hướng về thực học, quốc dân được bồi dưỡng về tự do độc lập. Song song với đó, các tác phẩm khai sáng phương Tây đã được giới thiệu, người ta đọc và sôi nổi thảo luận Voltaire, Rousseau, Adam Smith, Hebert Spencer, Charles Darwin... Khi Mạc phủ nhất định chủ trương khai quốc, lòng dân xôn xao phản đối chỉ là sự hiểu lầm chốc lát. Sau đó, cả nước Nhật tỉnh ngộ và mạnh mẽ thay đổi tư tưởng. Bao nhiêu tâm lực trước kia để vào Tỏa quốc Nhương di nay được dồn về một mục đích: cải cách văn minh của dân tộc.

Giới nghiên cứu ngày nay cũng đồng quan điểm với tác giả Đào Trinh Nhất khi cho rằng, một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên thành công của cuộc cải cách Minh Trị là vai trò của những nhà lãnh đạo, nổi bật nhất là vai trò của Duy tân tam kiệt, gồm ba chí sĩ: Saigo Takamori (Tây Hương Long Thịnh), Okubo Toshimichi (Đại Cửu Bảo Lợi Thông), Kido Takayoshi (Mộc Hộ Hiếu Doãn). Đây được xem là nhóm lãnh đạo đầu tiên đã có công lèo lái đất nước trong những năm đầu sau cuộc cải cách. Đó là những cánh tay đắc lực đã giúp Thiên hoàng thực hiện những chính sách cải cách về kinh tế, chính trị và quân sự hết sức hiệu quả, góp phần xây dựng chính quyền trung ương và tạo ra thời kỳ phát triển vượt bậc về văn hóa, luật pháp và quân sự.

Vốn là một nhà báo tài năng, sắc sảo, trở thành một học giả đáng kính với trình độ học vấn uyên thâm, cả đông tây kim cổ, khối lượng tác phẩm đồ sộ của Đào Trinh Nhất nổi lên 3 luồng tư tưởng lớn có ý nghĩa đối với đất nước, đối với thời đại, trong đó có tư tưởng duy tân đất nước. Nhật Bản duy tân 30 năm không chỉ cho thấy công cuộc duy tân thần kỳ của Nhật Bản là hiện tượng hấp dẫn muôn đời mà còn thể hiện lòng thiết tha mong muốn dân tộc Việt Nam biết học tập theo tấm gương Nhật Bản để xây dựng quốc kế dân sinh, đến gần hơn với cuộc sống văn minh.

 Cuốn sách Nhật Bản duy tân 30 năm của nhà sử học Đào Trinh Nhất được xuất bản lần đầu năm 1936. Cuộc hưng vong suy thịnh của quốc gia dân tộc này vẫn có thể làm tấm gương nên soi hay là dấu xe nên tránh cho quốc gia dân tộc kia. Nếu muốn soi gương sáng, theo dấu hay, tự nhiên chúng ta nên biết chuyện Nhật Bản duy tân tự cường cũng như nên học sử Pháp quốc văn minh cách mạng, cùng là các nước tấn hóa hùng cường khác trong thiên hạ vậy - tác giả Đào Trinh Nhất viết.

Hà Việt