Kỳ họp thứ Tám, QH Khóa XIV:

Quốc hội thảo luận kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước

- Thứ Năm, 31/10/2019, 18:03 - Chia sẻ
Chiều nay, 31.10, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2019; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2020.

Cơ sở quan trọng để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2016-2020

Với 95 ĐBQH phát biểu, có 5 đại biểu tham gia tranh luận; Bộ trưởng các Bộ: Giao thông vận tải, Tư pháp, Văn hóa thể thao và du lịch, Khoa học và Công nghệ, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư đã tham gia phát biểu làm rõ một số vấn đề có liên quan, phiên thảo luận toàn thể của QH về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2019 đã kết thúc sau 2 ngày làm việc sôi nổi, thẳng thắn, trách nhiệm. Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển cho biết, do thời gian có hạn, còn 14 đại biểu đăng ký nhưng chưa được phát biểu, đề nghị đại biểu gửi ý kiến đã chuẩn bị về Ban Thư ký QH để tổng hợp. 

Nhìn lại phiên thảo luận, Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển nêu rõ, đa số ĐBQH cơ bản thống nhất với nhiều nội dung trong các báo cáo của Chính phủ và các báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội. 


Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc phát biểu tại hội trường Ảnh: Lâm Hiển

Các ĐBQH cho rằng, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ và của các cấp chính quyền, sự giám sát chặt chẽ của QH và các cơ quan dân cử, sự cố gắng của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, năm 2019 đã đạt được kết quả khá toàn diện và tích cực. QH ghi nhận và đánh giá cao các kết quả đạt được trong việc thực hiện các Nghị quyết của QH về phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2019, coi đây là cơ sở quan trọng để tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2016-2020.

Các đại biểu cơ bản thống nhất với đánh giá của Chính phủ về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2019 và cho rằng: tăng trưởng kinh tế ước đạt và có thể cao hơn mức ước thực hiện của Chính phủ là 6,8%. Chất lượng tăng trưởng dần được cải thiện. Cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng chuyển biến theo hướng tích cực. Kinh tế vĩ mô xét trên các mặt như kiểm soát lạm phát, nợ công, cán cân xuất-nhập khẩu và lao động-việc làm đều có kết quả khả quan, làm cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tăng thu ngân sách vượt dự toán là 3,3%. Chi cho đầu tư phát triển, đạt tỷ trọng 26,6% tổng chi ngân sách nhà nước. Đảm bảo chi cho giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ. Kỷ cương, kỷ luật tài chính được tăng cường. Cơ cấu thu, chi ngân sách nhà nước chuyển dịch tích cực theo hướng giảm bội chi ngân sách nhà nước và giảm tỷ lệ nợ công trên GDP, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ. Công tác quốc phòng, an ninh được đảm bảo, hoạt động đối ngoại có nhiều kết quả tích cực, công tác xây dựng chính quyền, công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự xã hội có nhiều chuyển biến, niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước được nâng lên. 

Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế chưa đi vào những lĩnh vực cốt lõi

Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển, nhiều ý kiến cũng cho rằng, mặc dù tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu song cần đánh giá thêm về tính bền vững và chất lượng tăng trưởng. Chuyển, đổi mô hình tăng trưởng có chuyển biến, song chưa rõ nét, chưa đi vào những khâu, những lĩnh vực mang tính cốt lõi. Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và xử lý các hạn chế, yếu kém của khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là các đại dự án thua lỗ còn chậm; quản lý hoạt động đầu tư của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần tăng cường. Doanh nghiệp tư nhân phát triển khá nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận tín dụng, đất đai và các chính sách ưu đãi; liên kết vùng, liên kết kinh tế, liên kết sản phẩm còn hạn chế.

Vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn rất chậm, thiếu đồng bộ. Việc triển khai các công trình quan trọng quốc gia chưa đạt tiến độ đặt ra. Hạ tầng giao thông các vùng miền, hạ tầng đô thị, hạ tầng truyền tải, phân phối điện chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Đây vẫn là những "nút thắt" của nền kinh tế. 

Hoạt động dịch vụ, du lịch chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; việc quản lý và đầu tư cho lĩnh vực du lịch chưa mạnh mẽ.

Các đại biểu cho rằng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục. Đó là: vấn đề quản lý đất đai và tình trạng đầu cơ đất đai; thị trường bất động sản còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; vấn đề tích tụ ruộng đất trong sản xuất nông nghiệp; việc cung cấp thông tin về thị trường, về thời vụ cho người nông dân; chính sách hỗ trợ đóng tàu đánh bắt cá xa bờ chưa phát huy được hiệu quả, ảnh hưởng đến đời sống của ngư dân tham gia chương trình.

Các giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí; phòng, chống thiên tai; chống sạt lở bờ biển, bờ sông, chống xâm nhập mặn, ứng phó với biến đổi khí hậu; giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt chưa thật hiệu quả; vấn đề an ninh nguồn nước đang đặt ra các yêu cầu cấp bách. Tình trạng cháy rừng, phá rừng vẫn diễn biến phức tạp.

Công tác xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới còn có mặt chưa thật tốt; đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều vấn đề xã hội nảy sinh chưa được giải quyết một cách căn bản. 

Các ĐBQH đều quan tâm đến vấn đề biển Đông và cho rằng tình hình biển Đông diễn biến phức tạp, trong đó có việc tàu khảo sát HD8 của Trung Quốc vi phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được xác định theo Công ước của Liêp Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và đề nghị Chính phủ cần có giải pháp kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền biển đảo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, phù hợp với truyền thống hòa hiếu của cha ông trong dựng nước và giữ nước.

Tình hình an ninh, trật tự còn diễn biến phức tạp, vẫn xảy ra nhiều vụ trọng án, tình trạng hoạt động mang tính chất xã hội đen còn xảy ra, xuất hiện nhiều vụ đánh bạc có tổ chức, xâm hại trẻ em, di dân bất hợp pháp, buôn bán và sử dụng ma túy; lao động trái pháp luật ở nước ngoài; công tác an ninh mạng chưa ngăn chặn được những thông tin xấu, độc. Có ý kiến cho rằng, phát triển văn hóa chưa tương xứng với phát triển kinh tế, những biểu hiện tiêu cực, suy thoái đạo đức đang gây nhiều bức xúc xã hội.

Vấn đề tai nạn giao thông, phòng, chống cháy, nổ; công tác quản lý hoạt động đối với người nước ngoài, nhất là liên quan đến vấn đề mua bán, chuyển nhượng đất đai còn diễn ra chưa kiểm soát được. Công tác giải quyết khiếu nại, khiếu kiện đông người còn bất cập.

Về kết quả thực hiện dự toán NSNN năm 2019, theo Phó Chủ tịch QH, nhiều ý kiến cho rằng, việc thực hiện dự toán ngân sách năm 2019 là tích cực, có một số chuyển biến góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước. Tuy thu ngân sách nhà nước vượt dự toán nhưng thu từ 3 khu vực (doanh nghiệp nhà nước, FDI và ngoài nhà nước) chưa đạt dự toán, tăng thu chủ yếu từ các nguồn khác; việc sửa đổi chính sách thu chưa thực sự kịp thời, còn có những khó khăn nhất định. Kỷ luật công vụ, kỷ luật tài chính, ngân sách còn hạn chế, việc thực hiện cơ chế tự chủ, khoán kinh phí ở một số lĩnh vực dịch vụ công chưa thật tích cực. Việc thực hiện tăng thu, tiết kiệm chi, ưu tiên vốn cho đầu tư phát triển còn có mặt hạn chế. Tình trạng giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, chuyển nguồn ngày một lớn đã ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công.

ĐBQH cũng rất quan tâm đến vấn đề phát triển và quản lý đô thị, vấn đề áp dụng công nghệ số, công nghệ mới vào sản xuất và đời sống, vấn đề cải cách hành chính, cải cách bộ máy, tinh giản biên chế, cải cách tư pháp, công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các đại biểu đề nghị phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị quốc gia, tinh giản bộ máy và phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, cách ngành, tăng cường phân cấp cho địa phương.

Các đại biểu đề nghị Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương cần tích cực khắc phục những tồn tại, bất cập, yếu kém trong thời gian tới. 

Tiếp tục thực hiện mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng bền vững

Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020, Phó Chủ tịch QH nhấn mạnh, các ĐBQH cơ bản tán thành với Chính phủ và thống nhất cho rằng, năm 2020 là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển KT - XH 5 năm 2016-2020 nên có ý nghĩa rất quan trọng.

Bên cạnh những thuận lợi vẫn còn khó khăn, thách thức tác động đến nền kinh tế, đó là: sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, độ mở lớn, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong nước vẫn còn nhiều trở ngại, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế còn chuyển biến chậm; việc áp dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin trong nền kinh tế số còn có mặt hạn chế; biến đổi khí hậu và thiên tai, tác động xấu của ô nhiễm môi trường tiếp tục là những thách thức đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2020.

Đa số các ĐBQH cơ bản thống nhất với mục tiêu tổng quát, các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2020 như báo cáo của Chính phủ. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng mục tiêu tăng trưởng 6,8% là khó khăn trong tình hình hiện nay, nhưng cũng có ý kiến cho rằng cần đề ra mức độ tăng trưởng cao hơn. Nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ bám sát Nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, kế hoạch tài chính - ngân sách quốc gia 5 năm và kế hoạch đầu tư công trung hạn theo các nghị quyết của QH, tiếp tục thực hiện mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng bền vững, cần làm rõ bối cảnh, thách thức và có những giải pháp khắc phục các thách thức có thể tác động đến tăng trưởng như chiến tranh thương mại, an ninh phi truyền thống, tình hình diễn biến ở biển Đông, biến đổi khí hậu...; cần làm rõ căn cứ xác định các chỉ tiêu cụ thể về tăng trưởng GDP, nhập siêu, lao động, việc làm.

Nhiều ý kiến đề nghị đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hóa, xã hội và giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cùng nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền; tăng cường công tác xây dựng chính quyền và đổi mới hoạt động tư pháp.

Thực hiện tốt nguyên tắc phát triển bền vững kết hợp kinh tế, xã hội và môi trường

Về các giải pháp thực hiện để hoàn thành kế hoạch năm 2019, 2020, Phó Chủ tịch QH cho biết, nhiều đại biểu thống nhất các giải pháp, nhiệm vụ cụ thể để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội những tháng còn lại của năm 2019, kế hoạch năm 2020 như báo cáo của Chính phủ, các đại biểu cũng đề xuất nhiều giải pháp, sáng kiến để có thể thực hiện nhiệm vụ năm 2020. Đồng thời, đề nghị Chính phủ cần có các giải pháp tích cực xử lý các vướng mắc, hạn chế trong năm 2019, nhất là các vấn đề có liên quan chiến tranh thương mại, quan hệ kinh tế với một số nền kinh tế lớn; việc ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh giải ngân đầu tư công; thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; thúc đẩy tiêu dùng trong nước. Kiên quyết chống gian lận thương mại, gian lận xuất xứ hàng hóa, chuyển giá, thao túng thị trường, cạnh tranh không lành mạnh. Thực hiện tốt nguyên tắc phát triển bền vững kết hợp kinh tế, xã hội và môi trường. Cần quan tâm các biện pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ năm 2020 gắn với việc thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2016-2020. Chuẩn bị đưa đất nước vào một giai đoạn phát triển mới trong thập kỷ tới.

Các ý kiến của các ĐBQH đã được Ban Thư ký Kỳ họp ghi âm, ghi chép đầy đủ. Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển khẳng định, UBTVQH sẽ nghiêm túc tiếp thu và giải trình; đồng thời chỉ đạo các cơ quan của QH và các cơ quan liên quan của Chính phủ hoàn chỉnh các Dự thảo Nghị quyết trình QH thông qua. 

Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, sẽ tiếp tục trở thành động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế

Giải trình vấn đề được các ĐBQH đặt ra, Bộ trưởng Kế hoạch đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, động lực tăng trưởng kinh tế năm 2019 đến từ cả cung và cầu. Về phía cung, trong khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao, ước đạt trên 8,4%. Trong đó, riêng công nghiệp chế biến - chế tạo tăng 11% và tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu trong động lực tăng trưởng kinh tế năm nay. Bên cạnh đó, khu vực dịch vụ cũng tăng trưởng cao, ước đạt 7%. Tính chung cả hai lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong cơ cấu GDP chiếm tỷ trọng khoảng 86%, thể hiện sự chuyển dịch đúng hướng trong cơ cấu lớn của nền kinh tế. Về phía cầu, sức mua của thị trường trong nước liên tục phát triển trong những năm gần đây. Tổng lượng hàng hóa và dịch vụ luôn duy trì ở mức hai con số, ước đạt 11,5% trong năm 2019 nhờ kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát thấp, thu nhập tăng nên tổng cầu sức mua tăng, nền kinh tế được củng cố, duy trì đà tăng trưởng tích cực. Bên cạnh đó, xuất khẩu ước tăng 9,2%.

Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện, phản ánh qua kết quả tái cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch sang sản xuất, do đó ngành công nghiệp chế biến chế tạo phát triển mạnh, giảm dần sự phụ thuộc vào khai khoáng và tăng trưởng tín dụng. Đóng góp của năng suất, các nhân tố tổng hợp (TFP) hàng năm đạt trên 40%, cao hơn giai đoạn trước khoảng 33,58%, hoàn thành mục tiêu đề ra là 30 - 35%.  Năng suất lao động giai đoạn 2016 - 2019 cũng tăng cao, đạt 5,8% vượt mục tiêu của kế hoạch 5 năm là 5,5%. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng khẳng định, trong thời gian tới, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tiếp tục trở thành động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế. 

Giải ngân vốn đầu tư công từ năm 2020 sẽ có bước cải thiện đáng kể   

Về giải ngân vốn đầu tư công, nhắc lại tình trạng giải ngân chậm được nhiều ĐBQH đặt ra, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng thừa nhận, đây là điểm tối trong bức tranh sáng của nền kinh tế, đã ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển KT - XH, nhất là đóng góp của vốn đầu tư công vào giá trị GDP. Nhiều công trình hạ tầng chậm tiến độ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước. Cập nhật tình hình 10 tháng cho thấy, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chỉ đạt 49,83% so với kế hoạch QH giao và chỉ đạt 54,69% kế hoạch đầu tư Chính phủ giao, thấp hơn so với cùng kỳ 2018. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt, với nhiều giải pháp khác nhau ngay từ những tháng đầu năm như giao kế hoạch vốn rất sớm, đốc thúc các địa phương hoàn thành thủ tục, thủ tục đến đâu giao vốn đến đó nhưng đến nay vẫn còn 27.000 tỷ đồng vẫn chưa giao được. 

Mặc dù Chính phủ đã tổ chức nhiều đoàn công tác nhằm đôn đốc thúc đẩy tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhưng trên thực tế tình hình vẫn chậm được cải thiện. 

Trước tình hình đó, Chính phủ đã tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công trung hạn năm 2019, trong đó tập trung phân tích, đánh giá và làm rõ khắc phục các nguyên nhân như sau: Thứ nhất, về khách quan, rà soát lại một số quy định, văn bản pháp luật về Luật Đầu tư công như công tác thẩm định đầu tư, thủ tục điều chỉnh dự án, kế hoạch đầu tư còn phức tạp, nhiều việc phải thực hiện theo quy định của Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Bảo vệ tài nguyên môi trường còn bức xúc, chồng chéo và ách tắc. Về cơ bản, những vấn đề liên quan đến vướng mắc của Luật Đầu tư công đã được giải quyết xử lý ở Luật Đầu tư công (sửa đổi) và sẽ có hiệu lực ngày 1.1.2020 và một số vấn đề đang còn vướng mắc của hệ thống pháp luật với nhau thì Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân đã thống nhất giao cho các cơ quan tiếp tục rà soát trong thời gian tới để tiếp tục phát hiện những điểm cần phải chỉnh sửa, cần phải thống nhất lại.  

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, mặc dù vướng mắc trong phân cấp, tình tự, thủ tục, kế hoạch được cơ bản giải quyết nhưng Chính phủ cũng xác định nguyên nhân chủ quan, tức là khâu tổ chức thực hiện vẫn là nguyên nhân chủ yếu. Cụ thể là, công tác lập kế hoạch chưa sát với thực tế, việc giao kế hoạch chậm cả ở Trung ương và các cấp bộ, ngành, địa phương chưa phù hợp với yêu cần, tiến độ dự án. Công tác tổ chức các bộ, ngành, địa phương còn nhiều bất cập, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, trình độ năng lực chuyên môn của cán bộ quản lý, tư vấn giám sát, nhà thầu còn nhiều hạn chế... 

Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 94 với nhiều giải pháp chủ yếu để đẩy nhanh tiến độ phân bổ, giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2019, tập trung vào 5 nhóm giải pháp chính là: tiếp tục rà soát các quy định và vướng mắc để kịp thời điều chỉnh; khẩn trương giao chi tiết, điều chỉnh kế hoạch vốn, kiên quyết điều chỉnh vốn từ các dự án giải ngân chậm sang các dự án có khả năng giải ngân cao hơn; tập trung chỉ đạo công tác giải ngân ở các cấp, các ngành; đổi mới công tác theo dõi, đánh giá kế hoạch đầu tư công; tăng cường kỷ luật, kỷ cương nhất là vai trò của người đứng đầu. 

Về thông tin các bộ, ngành địa phương có tiến độ giải ngân chậm, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, đã được công khai trên cổng thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính. Do đó, Chính phủ cũng đề nghị các Đoàn ĐBQH, các ĐBQH tăng cường tổ chức giám sát chuyên đề về giải ngân ở một số khu vực tại địa phương mình, vừa nâng cao hiệu quả giám sát ngay tại cơ sở, vừa giúp chính quyền địa phương thấy rõ nguyên nhân và gợi ý nêu ra giải pháp để giải ngân hiệu quả. Với việc Luật Đầu tư công được sửa đổi và có hiệu lực từ 1.1.2020 và thực hiện đồng bộ các giải pháp của Nghị quyết 94, với sự giám sát của QH, các Đoàn ĐBQH, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tin tưởng, giải ngân vốn đầu tư công từ năm 2020 sẽ có bước cải thiện đáng kể.

Có nguyên nhân chủ quan của việc giao dự toán

Về một số ý kiến cho rằng thu NSNN chưa thực sự bền vững, thu NSNN vượt dự toán trong khi thu từ sản xuất kinh doanh không đạt dự toán, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, đúng là thu NSNN 4 năm qua luôn vượt dự toán và thu của 3 khu vực kinh tế không đạt dự toán. Ở đây có nguyên nhân chủ quan của việc giao dự toán. Những năm qua, do thu từ dầu thô và xuất nhập khẩu giảm nhanh, dự toán năm 2020 thu từ dầu thô chiếm 2,3% tổng thu NSNN; thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 13,8% và thu từ tiền sử dụng đất chiếm 6%, cho nên dự toán thu hàng năm tập trung vào 3 khu vực kinh tế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu NSNN. Dự toán năm 2020, 3 khu vực kinh tế này chiếm 45% tổng thu ngân sách và cũng tập trung vào các địa phương trọng điểm kinh tế.

Về vấn đề này, năm 2018, Bộ Tài chính đã báo cáo QH và từng bước điều chỉnh sát hơn với thực tiễn. Thể hiện, số địa phương không đạt dự toán thu nội địa không kể tiền đất và xổ số kiến thiết đã giảm trong những năm gần đây. Cụ thể: Nếu như năm 2017 là 34 địa phương, thì đến năm 2018 còn 22 địa phương và dự kiến năm 2019 còn 15 địa phương.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Tài chính cũng cho biết, việc dự báo nguồn thu ở địa phương có nhiều khó khăn. Chẳng hạn khi xây dựng dự toán, đánh giá trong năm tới năng lực sản xuất của địa phương sẽ tăng lên do 1 hoặc 2, hoặc 3 dự án mới đi vào hoạt động, nhưng thực tế chậm tiến độ dẫn đến giảm thu trong năm. Hay một số địa phương có thủy điện vừa và nhỏ phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết và kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù vậy, “xét về mặt bền vững của ngân sách, thì thu NSNN ngày càng bền vững hơn”, ông Dũng khẳng định và dẫn chứng: thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn là khoản thu quan trọng, cốt lõi; dự toán thu nội địa năm 2020 ở mức 83,6% tổng thu NSNN, trong đó thu từ 3 khu vực kinh tế đạt gần 45% tổng thu NSNN và năm 2017 mới đạt 39%, tỷ lệ này đang tăng rất nhanh; thu tiền sử dụng đất năm 2020 chỉ chiếm 6% và thu quyền khai thác khoáng sản chỉ chiếm 0,3% tổng thu NSNN.

Về điều chỉnh chính sách thuế, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tỷ trọng đóng góp thu từ hoạt động xuất nhập khẩu có xu hướng giảm do tác động của việc thực hiện các cam kết hội nhập. Cùng với mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng cũng đã có những tác động đáng kể đến việc cơ cấu lại thu NSNN.

Thời gian qua, Bộ Tài chính đã chủ động rà soát, đánh giá tình hình thực hiện các luật thuế. Thu thập kinh nghiệm quốc tế để xây dựng đề án Luật sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường theo đúng quy định... đưa ra các quy định nhằm giải quyết các bất cập, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, mở rộng cơ sở thuế như vấn đề rà soát, sửa đổi tổng thể chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các vướng mắc mà một số ĐBQH đã phát biểu, hay dịch chuyển phân bón máy móc, thiết bị chuyên dùng nông nghiệp, tàu đánh bắt xa bờ từ đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng sang đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng...

“Tư lệnh” ngành tài chính nhấn mạnh, các luật thuế nêu trên là các luật rất quan trọng có tác động lớn tới nhiều mặt của đời sống kinh tế- xã hội. Việc nghiên cứu, sửa đổi, cần có sự đánh giá thấu đáo, phù hợp với các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, do vậy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính tiếp tục rà soát đánh giá tổng thể, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để báo cáo với Chính phủ, Quốc hội trong thời gian tới.

Các nội dung trên, Bộ Tài chính cũng đã tham mưu để đưa vào báo cáo chính trị và báo cáo kinh tế- xã hội để định hướng cho giai đoạn tiếp theo 2021-2025.

Nợ đọng có khả năng thu trên tổng thu nội địa chỉ còn 3,65%

Về công tác chống thất thu và thu hồi nợ đọng thuế. Trong 10 tháng đầu năm 2019, toàn ngành tài chính đã thực hiện hơn 73,9 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó, kiến nghị xử lý tài chính hơn 48,3 nghìn tỷ đồng. Trong đó, thu nộp vào NSNN 14,8 nghìn tỷ đồng, kiến nghị tài chính khác là 33 nghìn tỷ đồng, riêng số giảm lỗ là 29,9 nghìn tỷ đồng, số thực nộp vào NSNN là 10,3 nghìn tỷ đồng. Bộ Tài chính đã và đang đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp và người dân. Về công tác thu hồi nợ đọng thuế, trong tổng số tiền nợ thuế do ngành thuế quản lý tính đến hết tháng 10.2019 thì nợ có khả năng thu chiếm 52,2%, giảm 12,3% so với cùng kỳ năm 2018; nợ không có khả năng thu hồi chiếm 47,8% và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ nợ đọng có khả năng thu trên tổng thu nội địa đã giảm. Nếu năm 2015 là 7,7% thì đến cuối tháng 10.2019 còn 3,65%.

Liên quan đến quyết định chuyển tỉnh lộ thành quốc lộ của Bộ Giao thông - Vận tải, giai đoạn 2013-2018, Bộ Giao thông - Vận tải đã ban hành 67 quyết định tại 42 tỉnh, chuyển 4.821,6km đường tỉnh lộ thành quốc lộ và chiếm gần 20% chiều dài của cả nước. Trong đó, giai đoạn 2013-2017 có 64 quyết định, Bộ Giao thông Vận tải không thực hiện thủ tục điều chuyển tài sản theo Nghị định số 10/2013/NĐ-CP của Chính phủ. Bộ trưởng Tài chính cho biết, Bộ Tài chính đã có 14 văn bản đề nghị Bộ Giao thông vận tải thực hiện điều chuyển tài sản theo quy định. Ngày 23.4.2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 33/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1.6.2019, do chưa rõ tiêu chí, thẩm quyền điều chỉnh tỉnh lộ thành quốc lộ, sau khi lấy ý kiến của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính đã có văn bản số 11103 ngày 20.9.2019 báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, tại văn bản số 9623 ngày 23.10.2019, Bộ Tài chính đã ban hành 42 quyết định điều chuyển tài sản từ tỉnh lộ thành quốc lộ từ các địa phương về Bộ Giao thông vận tải quản lý. Như vậy, trong thời gian rất ngắn, 1 tuần chúng tôi đã làm xong thủ tục. Về kinh phí bảo trì các tuyến đường này, Bộ Tài chính thống nhất với báo cáo của Bộ Giao thông vận tải báo cáo Thủ tướng đó là dùng Quỹ Bảo trì đường bộ Trung ương để bảo trì, bảo dưỡng.


Ảnh: Lâm Hiển

Bội chi ngân sách đã được kiểm soát cả số tuyệt đối và tương đối

Trong phiên thảo luận chiều nay, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng đã phát biểu, giải trình làm rõ một số vấn đề liên quan được ĐBQH đặt ta. 

Tư lệnh ngành tài chính khẳng định, trong thời gian tới, cần tiếp tục cơ cấu lại NSNN trên cơ sở đẩy mạnh thực chất hơn nữa nhiệm vụ sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cắt giảm các nhiệm vụ chi không cần thiết, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí và nâng cao hiệu quả sử dụng của NSNN.

Về bội chi NSNN, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nêu rõ, đã được kiểm soát cả số tuyệt đối và số tương đối. Năm 2020 dự toán là 3,44% GDP. Như vậy, bình quân cả giai đoạn 2016-2020 là 3,6-3,7% GDP, vượt mục tiêu đề ra cả giai đoạn là 3,9% và năm 2020 dự kiến là dưới 3,5% GDP. Nhờ kiểm soát tốt bội chi, các khoản vay bảo lãnh của Chính phủ nên tốc độ tăng nợ công đã giảm hơn một nửa và tăng thấp hơn tốc độ tăng GDP danh nghĩa. Nếu như giai đoạn 2011-2015 tốc độ tăng nợ công là 18,1%/năm trong khi GDP danh nghĩa là 14,5%/năm, thì giai đoạn năm 2016-2018 tốc độ tăng nợ công 8,2%/năm trong khi GDP danh nghĩa là 9,7%/năm. Nhờ vậy, tỷ lệ nợ công đến cuối năm 2020 ước tính là 54,3% GDP, trong khi năm 2016, năm đầu của thời kỳ là 63,7% GDP. Kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ tăng bình quân từ mức 3,9 năm của năm 2011 lên mức 13,5 năm của 9 tháng đầu năm 2019.

Tuy nhiên, ông Dũng cũng thừa nhận, công tác điều hành, quản lý NSNN cũng còn gặp nhiều khó khăn như nhiều đại biểu đã chỉ ra. Trong đó, tỷ lệ huy động từ thuế, phí có xu hướng giảm dần. Năm 2019-2020 chưa đạt mục tiêu là 21% GDP, mặc dù bình quân cả giai đoạn đạt mục tiêu là 21% GDP. Nguyên nhân chủ yếu là do đóng góp từ thu xuất nhập khẩu và dầu thô giảm rất nhanh. Bình quân giai đoạn 2006-2010, 2 khoản thu này đóng góp khoảng 10,5% GDP thì đến giai đoạn 2011-2015 còn 7,3% GDP và đến giai đoạn 2016-2020 giảm còn 4,5% GDP và dự kiến năm 2019 còn 4,2% GDP và năm 2020 còn 3,6% GDP.

Trong khi triển khai các giải pháp điều chỉnh chính sách thu theo kế hoạch 5 năm gặp nhiều khó khăn, trong kế hoạch 5 năm 2016-2020 đặt ra yêu cầu điều chỉnh chính sách thu để thu tăng thêm khoảng 300 nghìn tỷ đồng để bù đắp khoản thu từ xuất nhập khẩu và dầu thô. Bên cạnh đó, năng lực sản xuất của một số ngành đã đi vào ổn định, khó đạt mức tăng trưởng cao như dự toán năm 2020 từ than của Quảng Ninh tăng 8,2%, thu từ Nhà máy Lọc dầu Dung Quất giảm 19%.

Cùng với đó, thu nội địa của một số địa phương trọng điểm có điều tiết về ngân sách Trung ương tổng số thu chiếm 2/3 tổng thu nội địa của cả nước tăng rất chậm, như Hà Nội thu nội địa của năm 2017 tăng 17,6%, nhưng đến năm 2020 chỉ tăng còn 6,5%. TP. Hồ Chí Minh năm 2017 thu nội địa tăng 15,7% nhưng đến năm 2020 chỉ còn 12,3% và tương tự Bình Dương, năm 2017 là 17,3% và năm 2020 còn 9,9%.

“Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến cân đối thu của ngân sách Trung ương gặp khó khăn. 5 năm 2016-2020 ước đạt 55-56% tổng thu NSNN, thấp hơn mục tiêu đề ra”, ông Dũng cho biết. 

Để cải thiện vấn đề này, trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã và đang nghiên cứu để tiếp tục điều chỉnh chính sách thu, vừa đảm bảo tính cạnh tranh của môi trường đầu tư, đồng thời huy động hợp lý cho NSNN phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, cũng phải tăng cường các giải pháp quản lý thu, chống thất thu, chống chuyển giá, thu hồi nợ đọng thuế, hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 5 năm ở mức cao nhất. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đang nghiên cứu để xây dựng,  hoàn chỉnh chính sách thu, các quy định phân cấp nguồn thu giữa các cấp ngân sách theo hướng đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương. 

Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia phải là giải pháp đột phá 

Đề cập đến vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm hiện nay là việc xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, ĐBQH Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) cho rằng, năm 2019, đã có sự phát triển khá ấn tượng: Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 4,9% so với năm 2018, xếp thứ 42/129 quốc gia trên thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN. Tuy vậy, đại biểu cũng cho rằng, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia chưa phát triển đồng đều, rộng khắp các lĩnh vực, đóng góp chưa nhiều cho sự phát triển KT-XH, nền kinh tế vẫn đang nằm ở nấc thang thấp trong nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy, để phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cần phải dựa trên cơ sở khai thác nguồn lực của toàn bộ nền kinh tế, kết hợp với huy động nguồn lực và kinh nghiệm nước ngoài; phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa Chính phủ và cơ sở nghiên cứu của các trường đại học, doanh nghiệp và các chủ thể khác; chú trọng vai trò tương tác của các chủ thể trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đó. 

ĐBQH Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) phát biểu Ảnh: Lâm Hiển

Trường đại học có vai trò dẫn dắt, định hướng doanh nghiệp và các cụm trung tâm, tập trung vào các công nghệ cốt lõi của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển hệ thống. Để hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển hiệu quả, ĐB Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh, chúng ta cần triển khai hàng loạt giải pháp đồng bộ và khả thi như: hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tổ chức ươm tạo, thúc đẩy kinh doanh... Đặc biệt, Chính phủ cần quan tâm tới giải pháp quy hoạch lại toàn bộ mạng lưới các trường đại học và các viện nghiên cứu, chú trọng vai trò tương hỗ biện chứng giữa trường đại học - viện nghiên cứu - doanh nghiệp trong hệ sinh thái khởi nghiệp. Đồng thời, đầu tư phát triển các trường đại học đúng tầm nhằm nâng cao năng lực và tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia. 

Trường đại học không chỉ là nhà máy tạo ra công nghệ mới, mà còn là nơi đào tạo ra nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh nghiệp và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Ở Việt Nam hiện nay, đại đa số các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện chưa đủ năng lực, nguồn lực, nhân lực phục vụ nghiên cứu các công nghệ mới. Vì thế đổi mới sáng tạo rất cần sự trợ lực của các trường đại học hàng đầu, với các chính sách thiết thực gắn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với kinh doanh khoa học và phát triển công nghệ.   

Các mô hình đổi sáng tạo thành công trên thế giới được hình thành theo nhiều cách khác nhau, nhưng đều dựa trên 3 yếu tố cốt lõi: thứ nhất, văn hóa đổi mới sáng tạo khuyến khích mọi người dám suy nghĩ khác biệt, tôn trọng sự khác và mạo hiểm dám chấp nhận thất bại; thứ hai, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo lành mạnh, trong đó niềm tin là một trong những nhân tố cốt lõi quyết định sự thành công trên tinh thần thượng tôn pháp luật của người dân; thứ ba, đặt con người ở vị trí trung tâm trong mọi chính sách của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Đổi mới sáng tạo phải vị nhân sinh, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân và doanh nghiệp.

Từ những phân tích này, ĐB Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh, cùng với việc tích cực đổi mới thể chế, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, cần coi phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia là giải pháp đột phá để phát triển KT-XH trong những năm tiếp theo. Cần có những giải pháp căn cơ, đồng bộ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, lộ trình và kế hoạch cụ thể để hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia thực sự thúc đẩy sự phát triển KT - XH đất nước. Đổi mới sáng tạo chính là chìa khoá để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia khởi nghiệp, có sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế. 

Hoàn thiện cơ chế người xả thải trả phí

ĐBQH Ngô Sách Thực (Bắc Giang) phát biểu Ảnh: Lâm Hiển

Tiếp tục đề cập đến chủ đề phát triển bền vững được nhiều ĐBQH quan tâm trong 1,5 ngày thảo luận về kinh tế - xã hội, ĐBQH Ngô Sách Thực (Bắc Giang) dẫn số liệu kết quả điều tra năm 2018 cho thấy, trên 70% nhân dân quan tâm về ô nhiễm môi trường, nhiều nơi người dân bức xúc. Nhiều tồn tại, hạn chế dù đã được chỉ đạo nhưng việc khắc phục còn chậm như: phân loại rác, chất thải rắn tại nguồn cũng như chưa có hệ thống thu gom xử lý rác, phân loại tại nguồn thích hợp, nhiều nơi chính chỗ tập kết rác là nơi gây ô nhiễm. Công tác xã hội hóa hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải chưa cao; tổ chức việc thực hiện phân loại, thu gom, xử lý rác chưa đồng bộ. Nhiều nơi đã thực hiện phân loại từ hộ nhưng khi thu gom, vận chuyển, xử lý thì lại chung. Công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường tuy đã được tăng cường chỉ đạo quyết liệt, nhưng một số nơi chưa xử lý dứt điểm. Việc kiểm soát nước thải tại nhiều đô thị chưa tốt, chúng ta mới có 12,5% lượng nước thải đô thị loại 4 được xử lý và 46,5% các địa phương có đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung tại đô thị, tỷ lệ xả nước trực tiếp còn rất cao. Ô nhiễm nguồn nước, không khí, an toàn thực phẩm vẫn là điều đáng lo ngại. Sự cố môi trường xảy ra  một số nơi như thể hiện cảnh báo, thông tin phòng ngừa chưa kịp thời.

Từ thực tế này, đại biểu tỉnh Bắc Giang đề nghị, cần chỉ đạo tổng kết thực hiện các Nghị quyết của Đảng về bảo vệ môi trường và tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường giai đoạn 2011 – 2020 trong năm 2020. Bổ sung các giải pháp thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn mới nhất là các giải pháp về GDP xanh, vật liệu thay thế, tái chế, giảm thiểu rác thải nhựa, đặc biệt là các giải pháp về ứng phó với biến đổi khí hậu, tái định cư, chống tác hại của sạt lở vùng núi, sông, biển đang thường xuyên đe dọa tính mạng, đời sống của nhiều hộ dân. Chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các luật có liên quan để hoàn thiện cơ chế chính sách và văn bản pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường trong đó có sửa đổi một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Tăng cường giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường đầu tư và nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ này, trong khi nguồn lực thực hiện cho môi trường rất cần thiết, nhưng với kinh phí 1% ngân sách cho bảo vệ môi trường nhiều nơi bố trí không đủ, có nơi bố trí được nhưng không tiêu được và việc phân bổ chi cho đầu tư phát triển cho tài nguyên môi trường đạt thấp.

Cùng với đó, cần tăng cường chỉ đạo quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường. Ngoài việc chỉ đạo kiểm tra thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động môi trường trước khi quyết định các dự án đầu tư đầu tư, khuyến khích ứng dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường, kiểm soát xả thải, kiểm soát nhập khẩu công nghệ, kiểm soát chất cấm nhập khẩu…, theo ĐB Ngô Sách Thực, cần chỉ đạo, bổ sung hoàn thiện quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường, hoàn thiện cơ chế người xả thải trả phí, người gây ô nhiễm môi trường, gây hậu quả nghiêm trọng bị truy tố trước pháp luật. Khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong xử lý nước thải và cần tổ chức biểu dương các sáng kiến hoạt động, cách làm bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu trong nhân dân hàng năm và định kỳ. Việc sát dân, gần dân, lắng nghe ý kiến nhân dân sẽ có cách làm hay trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Đồng thời chỉ đạo các cấp các ngành liên quan xây dựng phương án xấu nhất để xử lý sự cố môi trường có thể gây ra, mở rộng hệ thống quan trắc môi trường để có cảnh báo sớm thông tin kịp thời cho người dân.

Phải có biện pháp bảo vệ nguồn nước cung cấp, bán cho dân

Ghi nhận những kết quả tích cực trong phát triển KT-XH năm 2019, song, ĐBQH Thái Trường Giang (Cà Mau) lưu ý công tác quản lý nhà nước, cụ thể là quản lý nguồn nước ngọt và các nhà máy nước vừa qua đang có nhiều bất cập cả trong quy hoạch, khai thác và bảo vệ. Qua nhiều sự cố liên quan đến xả thải của các doanh nghiệp ra biển, các dòng sông đã gây thiệt hại nhiều tỷ đồng cho người dân sinh sống bằng nghề nuôi trồng, khai thác thủy sản và gần đây, sự cố dầu thải gây ô nhiễm nguồn nước cấp cho nhà máy nước sông Đà mới đây... đã cho thấy, công tác quản lý nhà nước đối với nguồn nước ngọt còn nhiều sơ hở, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, không bảo đảm sức khoẻ cho người dân.

ĐBQH Thái Trường Giang (Cà Mau) phát biểu Ảnh: Lâm Hiển

Cũng theo ĐB Thái Trường Giang, chúng ta đều nhận thức được mức độ nguy hiểm như thế nào khi xảy ra sự cố nhà máy nước sông Đà vừa qua. Từ những vấn đề gây ô nhiễm môi trường do nước thải xả trực tiếp ra môi trường khi chưa được xử lý có nhiều nguyên nhân khác. Vấn đề bức xúc đặt ra là đã đến lúc Chính phủ, các Bộ, ngành, chính quyền các địa phương có liên quan cần nghiêm túc xem xét tổ chức thực hiện tốt các Luật: Tài nguyên nước 2012, Bảo vệ môi trường 2014, Thủy lợi 2017...; đồng thời, triển khai quy hoạch vùng liên quan đến nguồn nước, lưu vực sông... Đặc biệt, phải có biện pháp bảo vệ nguồn nước để cung cấp và bán cho người dân. Nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu khác là nguồn nước ngầm đã được Chính phủ quan tâm, hạn chế khai thác hoặc khai thác theo quy hoạch, kế hoạch tiến tới sẽ giảm trữ lượng nước ngầm. Việc khai thác nguồn nước ngầm quá mức tạo ra nhiều hệ lụy. Điều này sẽ càng gây áp lực nhiều hơn nguồn nước cấp sinh hoạt có nguồn gốc từ nước mặt từ các dòng sông và lưu vực sông.

Ông Giang đề nghị, Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương khẩn trương rà soát lại và có báo cáo cụ thể về việc tổ chức thực hiện Luật Tài nguyên nước và các văn bản hướng dẫn thi hành. Chính phủ cần tiến hành quy hoạch các nguồn nước lưu vực sông theo Luật Quy hoạch để bảo đảm an ninh nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất; chỉ đạo kiểm tra các địa phương và cơ quan, đơn vị có liên quan đến các nhà máy nước trên cả nước, chú ý tới các giải pháp chủ động ngăn chặn việc cố ý gây ô nhiễm, nhiễm độc cho nguồn nước thô là nguyên liệu cung cấp cho nước sinh hoạt của người dân và có giải pháp hiệu quả của cơ quan, đơn vị, địa phương về việc đối phó, khắc phục sự cố ô nhiễm, nhiễm độc nguồn nước nếu xảy ra. Chính phủ cũng cần rà soát quy hoạch và xây  dựng các hồ chứa nước ngọt để phục vụ cho dân cư phù hợp với điều kiện địa lý, khí hậu mỗi vùng, đặc biệt là vùng dân cư ven biển vốn thiếu nguồn nước ngọt.

Kết thúc Phiên thảo luận sáng nay, Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển cho biết, trong phiên làm việc sáng đã có 24 đại biểu phát biểu ý kiến; 2 Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phát biểu, giải trình làm rõ ý kiến đại biểu nêu.


Ảnh: Quang Khánh

Tổng kết trong một ngày rưỡi diễn ra Phiên thảo luận về kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước đã có 73 lượt đại biểu phát biểu, còn 39 đại biểu đăng ký phát biểu. Với số lượng này, Phó Chủ tịch QH Phùng Quốc Hiển nêu rõ: Đoàn Chủ tịch yêu cầu các đại biểu điều chỉnh bài phát biểu xuống còn 5 phút (thay vì 7 phút như thông lệ), và tập trung vào những vấn đề đại biểu khác chưa đề cập, nhất là những giải pháp khắc phục hạn chế, tồn tại, thực hiện thành công kế hoạch phát triển KT-XH năm 2020.

L. Anh - T. Chi - H. Ngọc