Quy chế bãi cạn Tư Chính và khu vực biển bãi cạn Tư Chính nhìn từ UNCLOS 1982

- Thứ Năm, 17/10/2019, 08:29 - Chia sẻ
Để biện minh cho những hoạt động phi pháp của nhóm tàu Địa chất Hải Dương 08 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, Trung Quốc khẳng định một cách hoàn toàn phi lý và sai trái rằng: “Hoạt động của nhóm tàu Địa chất Hải Dương 08 là hoàn toàn hợp pháp; bởi vì Bãi cạn Tư Chính là bộ phận cấu thành của quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa quần đảo) thuộc chủ quyền của Trung Quốc” và khu vực biển xung quanh bãi Tư Chính là “vùng biển kế cận”, “vùng biển liên quan” của “Nam Sa quần đảo” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam).

Để góp phần “phân tích, dự báo có căn cứ, cơ sở khoa học, tình hình thế giới và trong nước, nhất là tình hình Biển Đông; chỉ rõ các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước những thời cơ, thuận lợi cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức” theo yêu cầu của Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng, trong phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII ngày 7.10 vừa qua, TS. Trần Công Trục đã có bài nghiên cứu xem xét liệu bãi cạn Tư Chính và khu vực biển bãi cạn Tư Chính có phải là bộ phận cấu thành của quần đảo Trường Sa và khu vực biển xung quanh bãi Tư Chính có phải là “vùng biển phụ cận” và “vùng biển liên quan” của quần đảo Trường Sa theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) không?

Lập trường sai trái của Trung Quốc

Mọi người đều biết rằng, Trung Quốc là một trong những quốc gia đầu tiên ký kết và phê chuẩn UNCLOS 1982, hơn nữa là một trong những thành viên tích cực của nhóm quốc gia đang phát triển, đã có nhiều đóng góp trong quá trình tham gia Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3.

Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã triển khai các hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông, cũng như các quốc gia ngoài khu vực có quyền và lợi ích liên quan khác, bất chấp luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. Chẳng hạn, Trung Quốc tiếp tục duy trì yêu sách “đường lưỡi bò” bao lấy trên 80% diện tích Biển Đông và tìm cách hợp thức hóa yêu sách phi lý này bằng lập luận ngụy biện rằng:

- Đây là biên giới biển do lịch sử để lại, xuất hiện trước khi UNCLOS 1982 có hiệu lực, vì vậy nó không chịu tác động bởi UNCLOS 1982.

- Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở vùng biển nằm trong đường biên giới này.

- Hơn nữa, Trung Quốc có chủ quyền đối với “Tứ Sa” ở giữa Biển Đông (bao gồm Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam), Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam), Đông Sa (Pratas) và Trung Sa (vùng bãi cạn Macclesfield).

Vì vậy, theo UNCLOS 1982, Trung Quốc có quyền mở rộng phạm vi các “vùng biển có liên quan” của Tứ Sa ra đến biên giới biển theo đường chữ U.

Lập luận nói trên của Trung Quốc là sự “giải thích và áp dụng” UNCLOS 1982 một cách hoàn toàn sai trái. Chúng tôi xin vạch rõ tính ngụy biện trong cách “giải thích và áp dụng” UNCLOS 1982 của Trung Quốc dựa trên các khái niệm như sau:

“Biên giới do lịch sử để lại” và “quyền lịch sử”

Trung Quốc vin vào cái cớ đó là “biên giới biển do lịch sử để lại”, xuất hiện trước khi UNCLOS 1982 có hiệu lực, vì vậy nó không chịu tác động bởi UNCLOS 1982. Nhưng theo quy định của UNCLOS 1982, một quốc gia khi đã trở thành thành viên chính thức thì phải tuyệt đối tuân thủ và phải sửa đổi tất cả các quy định đã ban hành trước khi có Công ước, nếu chúng không phù hợp với các quy định của Công ước. Nếu không hủy bỏ và sửa đổi thì sẽ không có hiệu lực thi hành đối với các quốc gia thành viên khác.

“Các quốc gia thành viên” (Etats Parties) là những quốc gia đã chấp nhận sự ràng buộc của Công ước và Công ước có hiệu lực đối với các quốc gia đó và “Công ước được áp dụng mulatis mutandis (với những thay đổi cần thiết về chi tiết) cho những thực thể nói trong Điều 305 Khoản 1, điểm b, c, d, e và f đã trở thành thành viên của Công ước, theo đúng với các điều kiện liên quan đến từng thực thể; trong giới hạn đó, thuật ngữ “quốc gia thành viên” cũng dùng để chỉ những thực thể này”.

Còn về khái niệm “quyền lịch sử”, tại hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ 3, các đoàn đại biểu đã thảo luận về việc có nên đưa khái niệm này đối với các tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế không. Cuối cùng, khái niệm này đã bị gạt ra khỏi các quy định tại Phần V, từ Điều 55 đến Điều 75.

Trong Phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế The Haye 12.7.2016, Hội đồng Trọng tài cũng đã bác bỏ “quyền lịch sử đối với tài nguyên” đối với yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc.

Hiệu lực của các thực thể địa lý ở giữa Biển Đông trong việc xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa

Trung Quốc đã tuyên bố hệ thống đường cơ sở thẳng tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (Trung Quốc gọi là Tây Sa) năm 1998, vận dụng theo phương pháp thiết lập hệ thống đường cơ sở quốc gia quần đảo. Phần IV, Điều 46 UNCLOS 1982 đã định nghĩa:

“Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa.

“Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.

Điều 47 quy định: Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1…

Phần IV, không có điều khoản nào quy định phương pháp vạch đường cơ sở quần đảo không phải là quốc gia quần đảo.

Vì vậy, quốc gia lục địa có chủ quyền phải vạch đường cơ sở cho từng thực thể địa lý của quần đảo để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa cho từng thực thể địa lý đó theo đúng các tiêu chuẩn đã được quy định trong UNCLOS1982.

Như vậy, Trung Quốc đã giải thích và áp dụng sai các quy định của Phần IV, UNCLOS 1982 trong việc xác lập hệ thống đường cơ sở đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trung Quốc cũng đang tính đến việc xác lập hệ thống đường cơ sở ở quần đảo Trường Sa mà họ gọi là Nam Sa, sau khi họ đã chiếm đóng được tại các thực thể là các bãi cạn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và trên thềm lục địa của các quốc gia xung quanh Biển Đông. Từ cách xác lập hệ thống đường cơ sở sai trái đó, Trung Quốc khẳng định họ có quyền xác định “vùng biển phụ cận” và “vùng biển liên quan” của các quần đảo mà họ gọi là “Tứ Sa” ở giữa Biển Đông. Cũng xin lưu ý rằng những thuật ngữ “vùng biển phụ cận”, “vùng biển liên quan” là những thuật ngữ không có trong UNCLOS 1982. Trung Quốc đã sử dụng các thuật ngữ này để phục vụ cho thủ thuật “lập lờ đánh lận con đen” trong việc cố tình giải thích và áp dụng sai UNCLOS 1982.

Đây là một sai phạm tiếp theo sai phạm đã được phân tích ở Điểm I . Bởi vì, quy UNCLOS 1982, Phần VIII, Điều 121 quy định: 1 - Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước; 2 - Với điều kiện phải tuân thủ khoản 3, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của hòn đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác; và 3 - Những hòn đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.

Theo Hội đồng Trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII để xử vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2016, nếu căn cứ vào nguồn gốc của các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, thì tất các đảo ở đây rất nhỏ bé, không thích hợp cho đời sống của cộng đồng dân cư và không có đời sống kinh tế riêng nên chỉ có thể có vùng lãnh hải tối đa 12 hải lý. 

Từ những phân tích nói trên, đối chiếu với thực trạng của các bãi cạn ở cách bờ biển của các quốc gia ven Biển Đông không quá 200 hải lý, việc Trung Quốc khẳng định chúng là một bộ phận cấu thành của “quần đảo Nam Sa” (quần đảo Trường Sa của Việt Nam) là hoàn toàn sai trái; một sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, trái với những tiêu chuẩn của UNCLOS 1982. Bởi vì, chúng là những bãi ngầm, bãi cạn ở xa và bị ngăn cách quần đảo này bởi các rãnh sâu; không thể tạo thành một thể thống nhất về địa lý, địa chất và, đặc biệt, không thể gắn kết về kinh tế, lịch sử để tạo thành một thể thống nhất của quần đảo; đơn giản là vì con người không thể sinh sống, tồn tại ở những bãi san hô luôn luôn chìm dưới mặt nước biển. Vì vậy, bãi Tư Chính không thể là một bộ phận của quần đảo Trường Sa và vùng biển xung quanh bãi Tư Chính đương nhiên không thể được coi là “vùng biển phụ cận”, “vùng biển liên quan” của quần đảo này. Như vậy, có thể khẳng định rằng tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 18.9.2019 một lần nữa cho thấy Trung Quốc đang phớt lờ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế hiện hành, đang muốn viết lại Luật Biển Quốc tế, như nhận xét của nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu quốc tế.

Lập trường của Việt Nam

Khu vực bãi Tư Chính hoàn toàn ở trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam. Qua nghiên cứu, đối chiếu với những quy định của UNCLOS 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012, cũng như các tiền lệ pháp, đặc biệt là Phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế The Haye năm 2016, khu vực bãi cạn Tư Chính, Vũng Mây, Quế Đường, Huyền Trân… ở cách đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý; nếu tính từ các điểm nhô xa nhất của các đảo thuộc quần đảo Côn Đảo, Phú Quý, là những đảo thích hợp cho đời sống của cộng đồng dân cư và đời sống kinh tế riêng, thì khu vực biển này vẫn ở dưới khoảng cách 200 hải lý. Vì vậy, khu vực bãi cạn Tư Chính hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, chưa tính đến khả năng ranh giới ngoài của thềm lục địa ở đây có thể được mở rộng ra đến giới hạn tối đa 350 hải lý cách đường cơ sở nếu được Tiểu ban ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp Quốc xem xét, công nhận.

Vì vậy, tại khu vực này, Việt Nam đã và đang tiến hành thăm dò khai thác dầu khí, đã xây dựng các cụm dịch vụ mang tên DK, phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo Điều 60, UNCLOS 1982, quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa. Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56, UNCLOS 1982 hoặc các mục đích kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việt Nam tuyên bố không cố ý biến các bãi ngầm ở thềm lục địa phía nam thành đảo nổi và không ghép chúng vào quần đảo Trường Sa, đồng thời bác bỏ sự gán ghép này.

TS. Trần Công Trục - Nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ