Về địa vị pháp lý và cơ quan chủ quản trực tiếp của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND

- Thứ Năm, 11/10/2012, 08:40 - Chia sẻ
Qua 5 năm hợp nhất, bên cạnh những thuận lợi và kết quả tích cực, hoạt động của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được tháo gỡ, nhất là việc xác định đầy đủ và đúng địa vị pháp lý và cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp.

Đến nay, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã có báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 545/2007/UBTVQH12 ngày 11.12.2007 của UBTVQH Khóa XII về thành lập và quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, những năm qua Văn phòng các địa phương đều nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện về biên chế, tổ chức bộ máy, hướng dẫn chuyên môn nghiệåp vụ và tạo các điều kiện cơ sở vật chất, trụ sở làm việc... Trên cơ sở các nhiệm vụ được quy định trong Nghị quyết 545/2007/UBTVQH12 của UBTVQH, Hướng dẫn số 2342/HD-VPQH của VPQH và các quy định pháp luật khác, cơ bản các Văn phòng đều đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ tham mưu, phục vụ các hoạt động của Đoàn ĐBQH, HĐND, Thường trực HĐND và các ban HĐND. Trụ sở, số lượng cán bộ, công chức, viên chức đông hơn cũng có thuận lợi khi tập trung tham mưu, phục vụ. 

Tuy vậy qua 5 năm hợp nhất, hoạt động của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cũng gặp nhiều khó khăn, bất cập như: mô hình tổ chức bộ máy theo Nghị quyết và Hướng dẫn của VPQH chưa thật phù hợp với đặc thù từng địa phương (nơi thì lãnh đạo văn phòng 4 người, nơi thì 5 người; các phòng trong văn phòng tên gọi khác nhau…). Kinh phí từ hai nguồn Trung ương và địa phương; chủ tài khoản cũng riêng; việc sử dụng chi trả cho đại biểu, cho cán bộ công chức, chi cho hoạt động của Đoàn ĐBQH và HĐND cũng khác nhau. Chế độ theo Nghị quyết số: 773/2009/NQ-UBTVQH12 và hướng dẫn của VPQH thường cao hơn ở các địa phương. Có nơi cán bộ, công chức phục vụ Đoàn ĐBQH hưởng lương từ VPQH, có nơi hưởng chung từ nguồn ngân sách địa phương. Chế độ đãi ngộ thấp, cán bộ, công chức, viên chức lại không được hưởng chế độ ưu đãi 30% như cán bộ công chức, viên chức các cơ quan của Đảng. 

Quá trình hoạt động, Nghị quyết 545/2007/UBTVQH12 quy định: VPQH, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, Ban Công tác đại biểu theo chức năng, nhiệm vụ của mình hướng dẫn hoạt động đối với Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND. Nhưng trên thực tế quá trình hoạt động từ khi thành lập đến nay, chỉ có VPQH có Hướng dẫn số 2342/HD-VPQH để thực hiện. Đây cũng là khó khăn cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ của Văn phòng. Do vị trí pháp lý và chức năng, nhiệm vụ của Đoàn ĐBQH và HĐND khác nhau, được quy định tại 2 luật riêng là: Luật Tổ chức QH và Luật Tổ chức HĐND và UBND các cấp, nên hoạt động  của hai cơ quan Đoàn ĐBQH và HĐND tương đối độc lập. Tuy vậy, có thời điểm trong năm một số hoạt động của 2 cơ quan trùng nhau như: tổ chức cho đại biểu TXCT trước và sau kỳ họp, tổ chức các hoạt động giám sát. Việc song trùng này cũng làm khó cho công tác tham mưu, phục vụ của Văn phòng.

Những khó khăn, bất cập trên có thể khắc phục, nhưng bất cập nhất hiện nay đối với Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là chưa xác định được đầy đủ và đúng địa vị pháp lý và cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp.

Mặc dù trên thực tế địa vị pháp lý được coi như một cơ quan hành chính tương đương cấp sở (hệ số phụ cấp trách nhiệm đang hưởng của Chánh, Phó văn phòng và cấp lãnh đạo phòng thể hiện rõ) song lại chưa có văn bản hướng dẫn nào quy định rõ về vị trí pháp lý của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Về mô hình tổ chức bộ máy, theo Nghị quyết 545/2007/UBTVQH12 của UBTVQH thì Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thuộc cấp tỉnh quản lý:“Biên chế của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND nằm trong tổng biên chế hành chính của địa phương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phân bổ sau khi thống nhất với Trưởng đoàn ĐBQH và Thường trực HĐND”. Ngay sau khi có Nghị quyết này, ngày 4.2.2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 13/2008/NĐ-CP về “Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Đáng lưu ý, trong Nghị định này không có tên Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Vậy Văn phòng thuộc hệ thống cơ quan hành pháp hay lập pháp? Đây là một câu hỏi cần sớm được giải đáp.

Một bất cập nữa là: cơ quan chủ quản của Văn phòng là cơ quan nào? Hướng dẫn số 2342/HD-VPQH của VPQH quy định thể thức văn bản của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND:“Phần tiêu đề tên cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp là “Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố...”… Phần tiêu đề tên cơ quan ban hành văn bản phải ghi đầy đủ là “Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân”. Hiện nay ở 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có Đoàn ĐBQH, có HĐND, Thường trực HĐND. Nhưng các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và chính quyền địa phương hiện nay không có cơ quan nào có tên gọi là: “Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh”. Hướng dẫn có yêu cầu ghi tên cơ quan chủ quản trực tiếp của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND là “Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh” rõ ràng không phù hợp.   

Để hiểu rõ hơn về địa vị pháp lý của Đoàn ĐBQH, Luật Tổ chức QH có quy định tại Điều 60: Đoàn ĐBQH do “Các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội có đại biểu hoạt động chuyên trách. Đoàn đại biểu Quốc hội có trụ sở, Văn phòng giúp việc và có kinh phí hoạt động theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”. Điều 61 quy định: “Đoàn đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn và Phó trưởng đoàn”. Tại Kỳ họp thứ Hai, QH Khóa XI ban hành Quy chế bổ sung, sửa đổi Quy chế hoạt động của ĐBQH và Đoàn ĐBQH năm 1993. Điều 45 của Quy chế có quy định: “Đoàn đại biểu Quốc hội có trụ sở, con dấu và Văn phòng giúp việc”. Mặc dù Quy chế có quy định UBTVQH, Chính phủ, TAND Tối cao, VKSND Tối cao có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện Quy chế này. Nhưng các cơ quan này chủ yếu hướng dẫn về mối quan hệ công tác. Hiện tại, số ĐBQH chuyên trách ở địa phương quá ít, có Đoàn ĐBQH tỉnh chỉ có 1 đại biểu chuyên trách làm Phó trưởng đoàn. Cho dù có quy định như trên và Trưởng đoàn, Phó trưởãng đoàn hưởng phụ cấp trách nhiệm tương đương lãnh đạo cấp tỉnh, nhưng vẫn khó xác định Đoàn ĐBQH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan thuộc UBTVQH đóng tại địa phương hay là cơ quan nào trong hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước?

Như vậy, Hướng dẫn số 2342/HD-VPQH của VPQH quy định thể thức văn bản của Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND:“Phần tiêu đề tên cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp là “Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố...” rõ ràng là không ổn, cấp trên trực tiếp của Văn phòng không thể có một cơ quan chủ quản lắp ghép hai đơn nguyên thế này. Nếu đã không có cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp rõ ràng về địa vị pháp lý thì Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan nào trong hệ thống bộ máy chính quyền địa phương cũng khó xác định. Hiện nay, QH và HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều rất quan tâm đến việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Một trong những giải pháp quan trọng là phải có được cơ quan tham mưu, giúp việc phù hợp và hiệu quả. Giữ nguyên mô hình cơ quan Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, thành phố như hiện nay hay tách ra làm hai cơ quan văn phòng: Văn phòng Đoàn ĐBQH và Văn phòng HĐND là một quyết sách lớn, cần xem xét toàn diện, đúng đắn về các yếu tố trong đó có kết quả hoạt động thời gian qua, các căn cứ pháp lý, định hướng phát triển... Việc tổng kết đánh giá sau 5 năm thực hiện và xem xét bổ sung hoàn chỉnh Nghị quyết số 545/2007/UBTVQH12 của UBTVQH là cần thiết và cần làm sớm.

Nguyễn Xuân Diên
Phó văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố Hà Nội