Việt Nam đang sở hữu dân số đặc biệt năng động

- Chủ Nhật, 01/12/2019, 08:07 - Chia sẻ
Báo cáo “Việc làm thỏa đáng và các mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam” do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam vừa công bố đã chỉ ra rằng tăng trưởng việc làm trung bình hàng năm của Việt Nam trong thập kỷ qua tập trung vào nhóm việc làm cần kỹ năng trung bình và cao.

Cần thêm nhiều việc làm tốt

Thống kê phân bổ việc làm theo mức kỹ năng của Việt Nam tại Báo cáo cho thấy, 53% số việc làm trên cả nước là việc làm cần kỹ năng trung bình, và 12% đòi hỏi kỹ năng cao. Số còn lại (36%) là việc làm kỹ năng thấp. Chuyên gia kinh tế lao động của ILO tại Việt Nam Valentina Barcucci chia sẻ, so sánh cơ cấu này với các quốc gia có thu nhập trung bình cao - nhóm quốc gia mà Việt Nam mong muốn được gia nhập vào năm 2030 - cho thấy những điểm đáng quan tâm. Theo đó, tính trung bình, các nước thu nhập trung bình cao có tỷ trọng việc làm kỹ năng thấp tương đồng với Việt Nam (32%), tỷ trọng việc làm kỹ năng trung bình lớn hơn (48%), và tỷ trọng việc làm kỹ năng cao lớn hơn rất nhiều (ở mức 20%, cao gần gấp đôi Việt Nam).

Báo cáo này cũng cho thấy, Việt Nam đang sở hữu dân số đặc biệt năng động, với tỷ lệ tham gia thị trường lao động ở mức hơn 70% đối với phụ nữ (so với mức trung bình 48% trên thế giới), và 81% với nam giới. Việc làm trong các ngành sản xuất đã và đang tăng với tốc độ rất cao tại Việt Nam, kể từ năm 2014 luôn ở mức cao hơn mức chung của khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng khẳng định, Việt Nam không cần thêm nhiều việc làm, nhưng cần thêm việc làm tốt hơn. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp ở mức rất thấp, nhưng chất lượng việc làm lại đang là một thách thức”.

Điều đáng quan tâm của Báo cáo này đối với những người hoạch định chính sách là mặc dù việc làm dễ bị tổn thương đang trên đà giảm dần nhờ vào xu hướng công nghiệp hóa và tăng số lượng việc làm trong ngành sản xuất, nhưng vào năm 2018, vẫn có tới 54% người lao động đang làm những công việc dễ bị tổn thương. Nhóm việc làm này đặc thù là thường không có sự bảo vệ và thu nhập thường rất thấp. Chuyên gia kinh tế lao động của ILO tại Việt Nam Valentina Barcucci đề xuất, cải thiện chất lượng việc làm trong nhóm việc làm này của thị trường lao động cần phải trở thành một ưu tiên của Chính phủ, nếu Việt Nam muốn đạt được mục tiêu hiện đại hóa kinh tế xã hội.


Việt Nam cần cải thiện chất lượng việc làm

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Với lực lượng lao động 56 triệu người, Việt Nam trước mắt đang hưởng những thế mạnh của dân số trẻ. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề có bằng cấp chứng chỉ của Việt Nam mới chỉ chiếm 23%, cơ cấu đào tạo nghề lại chưa hợp lý, chưa tương thích với cơ cấu của nền kinh tế, dẫn đến tình trạng thừa - thiếu lao động cục bộ trên thị trường lao động. Thực tế này cũng có sự tương đồng đối với kết quả khảo sát của Báo cáo. Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh cho biết, trong thời gian tới Chính phủ sẽ có những thay đổi quan trọng về chính sách giáo dục nghề nghiệp để có sự tham gia sâu hơn của doanh nghiệp vào hoạt động dạy nghề, gắn việc học nghề với thực hành tại doanh nghiệp, phát huy vai trò chủ động của cơ sở đào tạo nghề, bám sát nhu cầu của thị trường lao động.

Cùng với những thay đổi trong chính sách giáo dục nghề nghiệp thì cần tiếp tục xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Chỉ thị số 37 CT/TW ngày 3.9.2019 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong tình hình mới; đặc biệt là những nội dung sửa đổi có liên quan tới quan hệ lao động trong Bộ luật Lao động (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua là những định hướng chính sách và khuôn khổ pháp lý quan trọng về quan hệ lao động trong tình hình mới. Theo đó, Bộ luật đã có những quy định phù hợp với yêu cầu đặt ra từ thực tiễn quan hệ lao động của Việt Nam cũng như phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế.

Giám đốc ILO tại Việt Nam Chang Hee Lee cho rằng, ngày nay thế giới việc làm đang trải qua những thay đổi lớn với tốc độ ngày càng nhanh, tác động tới sinh kế của hàng triệu người nam và nữ, cả người sử dụng lao động và người lao động. Những nhân tố thay đổi chính bao gồm cải tiến công nghệ với điển hình là Cách mạng 4.0, hệ thống thương mại toàn cầu với độ kết nối ngày càng lớn, già hóa dân số và biến đổi khí hậu. Để hiện thực hóa quyết tâm trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, Việt Nam cần những cải thiện về mặt xã hội song hành với phát triển kinh tế.

Nguyễn Minh