Quốc hội thảo luận về kinh tế-xã hội và phòng, chống dịch Covid-19:

ĐBQH Nguyễn Thị Lan (Hà Nội): Dành nguồn lực thích đáng cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân

- Thứ Hai, 08/11/2021, 14:45 - Chia sẻ
2021 là năm rất đặc biệt, đó là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước và là năm đầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch 5 năm 2021-2025, trong bối cảnh đất nước đầy gian khó, phải gánh chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có do dịch bệnh, do các yếu tố bất lợi và các xung đột địa chính trị gây ra. Nhưng với sự đoàn kết của toàn dân, sự lãnh đạo thống nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sự lãnh đạo thường xuyên, sáng suốt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội và Chính phủ đã đưa đất nước vượt qua thời khắc khó khăn, kiên định mục tiêu ưu tiên phòng, chống Covid-19 và bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội.

Nông nghiệp - trụ đỡ, bảo đảm sự phát triển ổn định của xã hội

ĐBQH Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) phát biểu
Ảnh: Quang Khánh

Báo cáo của Chính phủ đã đề cập đến nhiều nhiệm vụ và giải pháp có tính khả thi cao để vừa sẵn sàng chủ động ứng phó, giảm thiểu những thiệt hại do Covid-19 gây ra và vừa phục hồi, phát triển kinh tế trong giai đoạn cuối năm 2021 và 2022. Tuy nhiên, tôi đề nghị Chính phủ, Quốc hội dành sự quan tâm đầy đủ, dành nguồn lực thích đáng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, coi đây là nền tảng căn cốt và cần xác định rõ, bất luận trong hoàn cảnh nào thì nông nghiệp vẫn luôn là trụ đỡ, bảo đảm cho sự phát triển ổn định của xã hội và là tiền đề cho các bước phát triển kinh tế - xã hội tiếp theo. Đặc biệt, trong giai đoạn trong và sau Covid-19, Chính phủ cần có những giải pháp thiết thực về giống, về logistics, sản xuất, chế biến, tiêu thụ, khoa học công nghệ, chuyển đổi số và về nguồn lực tài chính để hỗ trợ phục hồi ngay khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân dễ bị tổn thương này.

Cần giải pháp đột phá nâng cao năng lực khoa học công nghệ

Quốc hội và Chính phủ cần có chương trình hành động và giải pháp đột phá theo tinh thần của Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 50 của Chính phủ nhằm nâng cao năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia. Chính phủ cần quan tâm, có chính sách đặc thù để khuyến khích đội ngũ trí thức, khoa học đông đảo đến từ các trường đại học và viện nghiên cứu, đây chính là lực lượng nòng cốt, thúc đẩy đổi mới sáng tạo quốc gia. Chúng ta có 237 trường đại học, 16.500 tiến sĩ, 574 giáo sư và 4.113 phó giáo sư. Hàng năm đào tạo khoảng 1.500 tiến sĩ, với 36 nghìn thạc sĩ, gần 1,5 triệu sinh viên đại học và khoảng vài nghìn đề tài nghiên cứu khoa học các cấp được triển khai từ các trường đại học. Hàng năm, rất nhiều đề tài được thực hiện và rất nhiều quy trình công nghệ, sản phẩm khoa học có tiềm năng ứng dụng vào thực tiễn, nhưng chỉ một số khiêm tốn được chuyển giao hay thương mại hóa để tạo ra giá trị gia tăng cao, phục vụ quốc kế dân sinh, gây lãng phí nguồn lực của xã hội.

Ảnh: Quang Khánh

Để có thể phát huy tiềm năng lợi thế to lớn về trí tuệ, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo này và tránh lãng phí nguồn lực, tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa XIV, tôi đã kiến nghị với Quốc hội về một số chính sách chung để thúc đẩy sự phát triển đổi mới sáng tạo trong trường đại học, viện nghiên cứu và đề cập đến tầm quan trọng và lợi ích của mô hình Spin-off, tạm gọi là mô hình doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ. Trong kỳ họp này, tôi tiếp tục đề xuất với Quốc hội, Chính phủ một số các vấn đề cụ thể để tháo gỡ vướng mắc cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp Spin-off nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp trong trường đại học và viện nghiên cứu.

Như đã đề cập, doanh nghiệp khởi nguồn công nghệ là doanh nghiệp được hình thành trong trường đại học để thương mại hóa các kết quả nghiên cứu do chính các nhà khoa học nắm giữ công nghệ hay bằng sáng chế. Mô hình này đã rất thành công ở nhiều nước trên thế giới và đã tạo ra doanh thu khá lớn, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội và đã lan tỏa tinh thần và kỹ năng khởi nghiệp cho sinh viên thanh niên.

Mặc dù mô hình Spin-off được cho là phù hợp, có nhiều ưu việt và đầy hứa hẹn như vậy nhưng ở Việt Nam chúng ta chưa được quan tâm đúng mức để phát triển mạnh mẽ, vẫn còn vướng mắc một số các quy định trong các luật khác nhau, như Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Luật Viên chức; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Doanh nghiệp; Luật Khoa học, công nghệ; Luật Chuyển giao công nghệ; Luật Quản lý tài sản công; các nghị định như Nghị định số 13, Nghị định số 70 của Chính phủ. Các luật này đã cho phép hình thành các doanh nghiệp trong trường đại học nhưng lại không hướng dẫn cụ thể về quy định đối với Spin-off, cần bổ sung các quy định về góp vốn, góp vốn bằng bản quyền công nghệ, quy định và thẩm quyền quyết định chuyển giao, góp vốn là sản phẩm của đề tài có sử dụng ngân sách nhà nước vào các Spin-off. Quy định về các nhà khoa học được tham gia vào bộ máy quản lý các công ty Spin-off này.

Để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khu vực trường đại học, viện nghiên cứu, huy động được đội ngũ trí thức, khoa học của các trường, viện nghiên cứu tham gia đổi mới, sáng tạo bằng kinh nghiệm thực tiễn nghiên cứu phát triển mô hình Spin-off của Học Viện Nông nghiệp Việt Nam và tham khảo các mô hình Spin-off của các nước trên thế giới, tôi kiến nghị Quốc hội, Chính phủ sớm rà soát, bổ sung các quy định pháp luật, các hướng dẫn thực hiện cho loại hình doanh nghiệp Spin-off. Trong thời gian chờ sửa đổi luật, đề nghị Chính phủ cho thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách thuận lợi cho mô hình Spin-off. Trong đó, cho phép các nhà khoa học được tham gia vào Ban quản lý điều hành doanh nghiệp Spin-off để làm chủ công nghệ và đổi mới sáng tạo công nghệ, tạo sản phẩm mới chất lượng và hiệu quả. Giao quyền cho các cơ sở nghiên cứu, trường đại học quyết định khai thác, sử dụng các sản phẩm đề tài nghiên cứu từ nguồn ngân sách nhà nước và chịu trách nhiệm về nguồn kinh phí thu được cho việc tái đầu tư cho nghiên cứu.

Anh Phương