Giao lưu trực tuyến Đổi mới cơ chế chính sách - đột phá phát triển khoa học công nghệ

- Thứ Sáu, 17/05/2013, 09:44 - Chia sẻ
Nhằm góp phần đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ (KH và CN), tập hợp các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về KH và CN, Báo điện tử Đại biểu nhân dân phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và phát triển truyền thông KH và CN, Bộ KH và CN tổ chức giao lưu trực tuyến với bạn đọc về chủ đề “Đổi mới cơ chế chính sách - đột phá phát triển khoa học công nghệ”.

Tham gia giao lưu có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ TSKH. NGHIÊM VŨ KHẢI; Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học - Viện hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Chính sách Khoa học Công nghệ Quốc gia GS.TS TRƯƠNG NAM HẢI; Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch, Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh NGÔ ĐỨC HOÀNG. Buổi giao lưu tập trung vào 3 nội dung chính: Hoàn thiện chính sách pháp luật về KH và CN; Đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế tài chính; phát triển thị trường KHCN.

Báo ĐBND xin giới thiệu  nội dung buổi giao lưu trực tuyến:

 

1. Cơ chế chính sách- nền tảng  phát triển KHCN 

Hoàng Thúy Lan (41 tuổi), Gia Lai: Xin được hỏi Thứ trưởng Nghiêm Vũ Khải, với trách nhiệm của một nhà quản lý đồng thời cũng là nhà khoa học, ông đánh giá như thế nào về những đóng góp của khoa học và công nghệ trong những năm gần đây?

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Nghị quyết 20 của Trung ương đã đánh giá vai trò tích cực của KH và CN trong việc phát triển KT– XH đất nước. Trong suốt thời gian qua, tăng trưởng kinh tế (GDP) luôn đạt khoảng 7%. Mặc dù trong vài năm gần đây do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt trên 5%. KH và CN đã có đóng góp đáng kể trong thành tựu phát triển KT – XH nói trên. 

Một số lĩnh vực KH và CN Việt Nam đã đạt được trình độ của khu vực, như lĩnh vực công nghệ sinh học (nhất là ứng dụng trong nông – lâm – ngư nghiệp), công nghệ thông tin, y dược, khoa học cơ bản (toán, lý). Có một số công trình đạt trình độ quốc tế. 

Năng lực KH và CN quốc gia tăng đáng kể từ năm 2000 sau khi Luật KH và CN được ban hành, đặc biệt là từ năm 2001, đầu tư Ngân sách Nhà nước (NSNN) cho KH và CN luôn bảo đảm mức 2% hàng năm. 

Chúng ta vẫn duy trì được đội ngũ cán bộ KH và CN và trang thiết bị trong một số lĩnh vực khoa học công nghệ quan trọng. Vì vậy, năng lực tiếp thu và sử dụng công nghệ cũng được nâng cao. Với năng lực KH và CN quốc gia như hiện nay, Việt Nam có thể đẩy nhanh việc tiếp thu những lĩnh vực công nghệ tiên tiến của thế giới và tạo được những bước đột phá nếu như chúng ta thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong Nghị Quyết 20, nhất là về đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH và CN.

Tống Văn Tăng (33 tuổi), Thái Nguyên: Đâu là những đổi mới cơ bản  trong chính sách  KH và CN, thưa ông? Điều này sẽ giúp ích gì cho lĩnh vực KHCN?

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế tài chính nhằm thực hiện chủ trương phát triển KH và CN là quốc sách hàng đầu. Về đầu tư công, ngoài việc bảo đảm không dưới 2% NSNN hàng năm chi cho KH và CN, Luật KH và CN sửa đổi vẫn duy trì những chính sách đầu tư công đã được quy định tại Luật hiện hành năm 2000. Đồng thời, Luật sửa đổi quy định cơ chế đầu tư đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ KH và CN đặc biệt. 

Dự thảo Luật KHCN sửa đổi đã quy định nhiều cơ chế để huy động nguồn đầu tư của xã hội (ngoài NSNN), đặc biệt là đầu tư của doanh nghiệp cho nghiên cứu phát triển, ứng dụng KH và CN. Ngoài ra, Luật sửa đổi cũng đã quy định nhiều chính sách thu hút nguồn lực nước ngoài đầu tư phát triển KH và CN tại Việt Nam. 

Về cơ chế tài chính, Luật sửa đổi sẽ khắc phục cơ bản những tồn tại trong cơ chế tài chính hiện hành. Một mặt, bảo đảm kỷ luật tài chính, chống thất thoát, mặt khác đã tạo cơ chế phân bổ, sử dụng, kiểm soát việc sử dụng kinh phí phù hợp với đặc thù của hoạt động KH và CN, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chủ tự chịu trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động KH và CN. Ví dụ như việc áp dụng cơ chế khoán chi, áp dụng cơ chế quỹ, cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH và CN. 

Cơ chế xác định, tuyển chọn, giao và thực hiện nhiệm vụ KH và CN cũng đã được điều chỉnh trong Dự thảo Luật sửa đổi theo hướng bám sát nhiệm vụ của phát triển kinh tế xã hội của đất nước, ngành và địa phương; bảo đảm sản phẩm đầu ra phải có địa chỉ tiếp thu, ứng dụng. Điều đó sẽ khắc phục cơ bản tồn tại trước đây cho rằng việc đầu tư còn dàn trải; tránh được tình trạng kết quả nghiên cứu bỏ “ngăn kéo”, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí đầu tư cho KH và CN. 

Chính sách trọng dụng đội ngũ nhân lực KH và CN được thể hiện tập trung. Quyền của tổ chức, cá nhân hoạt động KH và CN được quy định cụ thể hơn, đặc biệt là đối với các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đặc biệt quan trọng và nhà khoa học trẻ tài năng. Luật sửa đổi cũng đã quy định các chế tài thu hút chuyên gia là người nước ngoài, người VN ở nước ngoài. Chính sách trọng dụng các nhà khoa học được thể hiện ở cả 3 khía cạnh: thu nhập, tôn vinh, môi trường hoạt động sáng tạo. 

Trong Dự thảo Luật đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ KH và CN trong xây dựng dự toán chi NSNN, xây dựng quy hoạch mạng lưới tổ chức KH và CN, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật phát triển KH và CN.

 
Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải đang giao lưu cùng độc giả

Hoàng Bảo Khánh (41 tuổi), NinhThuận: Thưa ông Khải, làm thế nào để người dân biết được mục đích, ý nghĩa của việc sửa đổi Luật KH và CN năm 2000? Điều này có ý nghĩa với người dân như thế nào? 

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Để làm được điều đó cần phải tổ chức phổ biến tuyên truyền, đặc biệt là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Mục đích sửa đổi Luật KH và CN năm 2000 là: (1). Thể chế hóa những chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển KHCN như là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất, tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa và của nền kinh tế. Những quan điểm này đã được thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 20 của Hội nghị TW 6 và một số văn kiện lớn. (2). Luật năm 2000 đã được ban hành cách đây 13 năm. Từ đó đến nay, hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật trong lĩnh vực KHCN đã được sửa đổi, bổ sung một cách căn bản. Luật KH và CN (sửa đổi), với vị thế là một đạo luật cơ bản trong lĩnh vực KHCN cần phải sửa đổi bổ sung tạo sự thống nhất đồng bộ của hệ thống pháp luật; đồng thời, khắc phục những tồn tại, bất cập của Luật hiện hành. (3). Nước ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế và đời sống quốc tế, vì vậy Luật KH và CN (sửa đổi) cần được hoàn chỉnh, tạo điều kiện pháp lý để Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, tận dụng những thời cơ, đưa nền KHCN nước nhà sớm đạt được trình độ khu vực và quốc tế.

Việc để người dân hiểu và thực hiện pháp luật về KHCN là một nhiệm vụ rất cần thiết, quan trọng. Công tác truyền thông KHCN cần hướng vào việc phổ biến chính sách pháp luật, giới thiệu và nhân rộng những điển hình về ứng dụng thành công KHCN trong sản xuất và đời sống. Đồng thời, cần khích lệ lòng tự trọng dân tộc, khích lệ động viên các nhà khoa học phấn đấu để chấn hưng nền khoa học nước nhà. Như Bác Hồ đã nói: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, muốn xây dựng một quốc gia giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì không có con đường nào khác là phát triển, ứng dụng KH và CN. Cách đây 50 năm, ngày 18/5/1963 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu tại Đại hội của Hội phổ biến KH và kỹ thuật Việt Nam: "Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm không ngừng nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho CNXH thắng lợi". Tôi cho rằng, lời dạy của Bác là phương châm, nguyên lý của hoạt động KH và CN cũng như hoạt động hoạt động truyền thông KH và CN. 

Nguyễn Thị Thắm (37 tuổi), Đà Nẵng: Dự án Luật KH và CN đang được nghiên cứu sửa đổi và trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ Năm tới đây. Là một doanh nghiệp, nếu đóng góp ý kiến cho dự thảo luật này, ông sẽ đóng góp những vấn đề gì? 

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Tôi đã được đọc Dự án Luật KH - CN (sửa đổi) và nhận thấy, đây là một luật có nhiều đột phá hơn cho KH - CN nước nhà: sắp xếp lại hệ thống tổ chức KH - CN nhằm tạo ra các tổ chức KH - CN hoạt động một cách hiệu quả, xây dựng cơ chế đặt hàng để tạo ra được những sản phẩm cuối cùng có tính thương mại cao, cơ chế cấp phát kinh phí KH - CN thông qua quỹ, giao quyền mạnh hơn cho Bộ trưởng Bộ KH - CN...

Tuy nhiên, nếu cần góp ý một cách khái quát cho dự án này thì tôi xin được trình bày một ý như sau: một số điều khoản trong Dự án luật còn mang tính chủ trương, chưa cụ thể, chưa định lượng. Ví dụ: ở điều khoản Quỹ Phát triển KH - CN của doanh nghiệp có ghi rõ doanh nghiệp phải trích lợi nhuận để thành lập quỹ này, nhưng lại không nêu rõ tối thiểu bao nhiêu phần trăm. Con số phần trăm này lại giao cho Chính phủ xác định thông qua các văn bản dưới luật... Điều này đòi hỏi phải có nhiều văn bản, tthông tư dưới luật cụ thể hoá các điều khoản nói trên. Ở Việt Nam, đôi khi các văn bản này thường chậm phát hành hoặc không cụ thể hoá được, dẫn đến Luật sẽ chậm hoặc có khi sẽ không đi vào cuộc sống.

Nguyễn Thị Thu Huệ (29 tuổi), Lâm Đồng: Tôi là một cử tri, tôi xin hỏi ông, nếu được yêu cầu đóng góp cho Luật KHCN, ông sẽ quan tâm điều gì?  

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Điều tôi quan tâm đối với Luật KHCN đó là, thứ nhất, xây dựng được cơ chế lựa chọn các nhiệm vụ KHCN đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Thứ hai, cơ chế chọn được các tập thể và các nhà khoa học có khả năng thực hiện tốt nhất các nhiệm vụ này và thứ ba là tạo điều kiện thuận lợi để các nhiệm vụ đó được thực hiện một cách hiệu quả nhất.

Khuất Văn Chung (35 tuổi), Quảng Ninh: Là người hoạt động trong lĩnh vực KHCN, ông có ý kiến gì về việc các doanh nghiệp trích ít nhất 10% lợi nhuận trước thuế vào việc nghiên cứu, đổi mới công nghệ mà dự thảo Luật KH và CN (sửa đổi) đã đề xuất? 

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Việc doanh nghiệp trích ít nhất 10% lợi nhuận trước thuế vào việc nghiên cứu đổi mới KH - CN mà bạn vừa hỏi thực ra không có trong Luật KH - CN (sửa đổi). Tôi cũng mong muốn được thấy con số này trong văn bản, thế nhưng, rất tiếc là điều khoản về Quỹ Phát triển KH - CN chỉ yêu cầu doanh nghiệp nhà nước phải trích một phần tỷ lệ lợi nhuận để thành lập Quỹ Phát triển KH - CN (một phần tỷ lệ này là bao nhiêu thì luật lại không ghi rõ và giao nhiệm vụ này cho các văn bản dưới luật). Tuy vậy, điều khoản nói trên có thể là một bước đột phá mạnh mẽ trong việc huy động nguồn lực của cả xã hội cho sự nghiệp phát triển KH - CN. Đây là một điểm sáng của Dự thảo Luật KH - CN (sửa đổi).

Phạm Hà Anh (43 tuổi), Hải Phòng: Thưa ông Ngô Đức Hoàng. Tại sao các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đầu tư cho KHCN? Luật KH-CN sửa đổi có tạo ra động lực hay ràng buộc để các doanh nghiệp đầu tư thích đáng cho nghiên cứu, áp dụng thành tựu KH-CN vào sản phẩm phục vụ cuộc sống?

 
GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng đang giao lưu cùng độc giả

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam còn khá non trẻ. Để tồn tại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp khác trong nước và đặc biệt với các doanh nghiệp nước ngoài có bề dày hoạt động hàng chục năm, doanh nghiệp Việt Nam có quá nhiều nỗi lo toan về vốn, thị trường... Điều này khiến các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đầu tư cho KH - CN. Nhưng theo thời gian, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được rằng, KH - CN là yếu tố quan trọng để họ có thể phát triển một cách bền vững, chủ động, cạnh tranh trên thị trường. Mặt khác, Luật KH - CN hiện hành tuy có khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho KH - CN nhưng chưa cụ thể, điều này cũng làm hạn chế sự quan tâm đầu tư cho KH - CN của từng doanh nghiệp. 

Dự thảo Luật KH - CN (sửa đổi) lần này đã đặt vấn đề một cách triệt để, đưa ra được các chính sách hỗ trợ rõ ràng cho doanh nghiệp. Tôi tin rằng, nếu Dự thảo luật lần này được thông qua, cũng như các văn bản dưới luật thể hiện chính xác tinh thần của Dự thảo luật và việc thực thi chính sách một cách nghiêm túc, thì doanh nghiệp sẽ là một nguồn đầu tư rất lớn, thậm chí lớn hơn cả ngân sách nhà nước cho sự nghiệp phát triển KH - CN.  

Lê Tự Nam (46 tuổi), Hải Phòng: Thưa Thứ trưởng Nghiêm Vũ Khải. Tôi thấy giáo dục và KH-CN  có liên quan chặt chẽ với nhau. Có thể nói giáo dục là nền tảng cho KH-CN. Vậy KH-CN sẽ giúp gì cho phát triển giáo dục?

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Giáo dục, đào tạo và KH-CN là 2 lĩnh vực được xác định là quốc sách hàng đầu, có liên quan chặt chẽ và tác động tương hỗ. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục và đào tạo là đào tạo nguồn nhân lực KH và CN - yếu tố có tính chất quyết định phục vụ phát triển KH và CN. 

Trong Luật Giáo dục Đại học có một chương quy định về hoạt động KH-CN trong các cơ sở giáo dục đại học. Đồng thời, trong dự thảo Luật KH-CN (sửa đổi) cũng quy định cơ sở giáo dục đại học là tổ chức KH và CN. Các cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi áp dụng đối với các tổ chức KH và CN, đương nhiên cũng được áp dụng đối với các cơ sở giáo dục đại học. Việc phát triển KH và CN, đặc biệt là những thành tựu nghiên cứu KH và phát triển CN có tác dụng to lớn nâng cao chất lượng của chương trình đào tạo, nâng cao trình độ người dạy và người học. Suy rộng ra, KH và CN có vai trò nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục và đào tạo. Chính sách, pháp luật về phát triển KH và CN xác định vị trí quan trọng của các cơ sở giáo dục nhất là giáo dục đại học, tạo điều kiện để các giảng viên đại học, sinh viên tham gia nghiên cứu để nâng cao trình độ, hưởng các chế độ ưu đãi về thu nhập, tham gia hoạt động KH và CN với nước ngoài. Qua các hoạt động nêu trên chất lượng giáo dục sẽ được nâng cao và đó cũng là yếu tố quan trọng nâng cao trình độ KH-CN của đất nước.

 

Phạm Thành Lê (42 tuổi), Hà Nội: Tôi có câu hỏi như sau xin được gửi tới ông Ngô Đức Hoàng. Việc phát triển KHCN là tập trung vào nguồn lực tài chính hay con người hay cơ chế chính sách đối với cán bộ làm KHCN?

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Tôi cho rằng, việc phát triển KHCN cần cả 3 yếu tố: nguồn lực tài chính, nhân lực và cơ chế chính sách. Trong đó, nhân lực và cơ chế chính sách là hai yếu tố quan trọng hơn. Nói đến công nghệ cao, không thể không nói đến nguồn nhân lực chất lượng cao. Chúng ta đã có những bài học kinh nghiệm về việc đầu tư các phòng thí nghiệm, các cơ sở nghiên cứu hàng triệu đến hàng chục triệu USD nhưng lại đắp chiếu chỉ vì không có nhân lực đủ tầm để vận hành một cách hiệu quả. Theo kinh nghiệm của tôi, trước khi đầu tư cơ sở vật chất trong lĩnh vực công nghệ cao, hãy đầu tư đào tạo con người chuẩn bị cho việc vận hành, quản lý. Trong lĩnh vực công nghệ cao còn mới mẻ, chính sách nhà nước về đầu tư công, tạo thị trường cho sản phẩm, hỗ trợ tài chính... (không chỉ là chính sách đối với cán bộ làm KHCN) là quan trọng để lĩnh vực công nghệ cao có thể tồn tại và cất cánh trong thời gian tới. Kinh nghiệm các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... đều như thế cả. Sau thời gian tồn tại ban đầu nhờ sự hỗ trợ của Nhà nước, lĩnh vực công nghệ cao sẽ tự đứng vững, chiếm lĩnh thị trường trong nước, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu và đem lại nguồn lợi rất lớn cho cả đất nước.

Trần Hoài Nam (46 tuổi), Nghệ An: Thưa ông Thứ trưởng, ông cũng từng là ĐBQH nhiều khóa. Vậy theo ông cử tri chờ đợi điều gì từ Luật KHCN sửa đổi lần này? 

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Dân tộc ta là một dân tộc hiếu học, luôn coi trọng việc học hành, coi trọng tri thức và kỳ vọng rằng việc phát triển KH và CN sẽ nâng cao vị thế, lòng tự hào dân tộc cũng như góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Trong thời gian làm ĐBQH tôi có cơ hội tiếp xúc với cử tri, đồng bào trên hầu hết các vùng, miền của đất nước. Tại nhiều địa phương, KH và CN đã thực sự có đóng góp vào việc nâng cao đời sống, bảo vệ sức khỏe của người dân. Tuy nhiên, việc ứng dụng các thành tựu, kết quả nghiên cứu khoa học vẫn còn nhiều hạn chế. Dự thảo Luật KH và CN (sửa đổi) lần này đã xác định việc ứng dụng KH-CN là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động KH và CN. Đồng thời, cũng quy định nhiều chế tài để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, trọng dụng nhân tài, sao cho người dân có thể tham gia hoạt động KH-CN để từ đó thụ hưởng kết quả đem lại. Tôi tin tưởng rằng, dự thảo Luật KH và CN (sửa đổi ) lần này sẽ đáp ứng được những mong muốn, nguyện vọng của cử tri cả nước.

 

Nguyễn Hải An (38 tuổi), Hà Nội: Thưa ông Thứ trưởng, để phát triển KH-CN bền vững thì ngoài đổi mới cơ chế tài chính thì vấn đề nguồn nhân lực cũng rất quan trọng. Vấn đề này được quan tâm giải quyết như thế nào?

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về thực trạng, thành tựu và tồn tại trong lĩnh vực KH và CN. Tôi cho rằng, những đánh giá nêu trong Nghị quyết số 20, Hội nghị TW6 là chính xác và toàn diện. Trong một thế giới toàn cầu hóa, phát triển mau lẹ với những cơ hội và thách thức đan xen thì cuộc giành giật nhân tài KH-CN đang diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay, ở nước ta có một số lượng khá lớn cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ được đào tạo trong nước và ngoài nước với những ngành nghề đa dạng và thuộc nhiều thế hệ. Trong một số lĩnh vực, chúng ta có những nhóm, tập thể khoa học khá mạnh đạt trình độ khu vực và quốc tế.  

Tuy nhiên, nhân lực KH-CN nói chung còn tản mạn, chưa được tập hợp để thực hiện những nhiệm vụ KH-CN lớn. Để khắc phục tình trạng này, dự thảo Luật KH và CN (sửa đổi) đã dành một chương (Chương III) để quy định những chính sách, cơ chế phát triển nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài và khoa học. Cá nhân hoạt động KH - CN được trao nhiều quyền hơn để có thể tự do sáng tạo vì sự phát triển của đất nước. Điều 23 quy định cơ chế ưu đãi đặc biệt đối với các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học đang chủ trì nhiệm vụ khoa học trọng điểm quốc gia và nhà khoa học trẻ tài năng. Có thể nói, trong các văn kiện lớn của Đảng và Nhà nước, trong dự thảo Luật KH và CN (sửa đổi) coi việc phát triển nguồn nhân lực KH và CN là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp phát triển KH và CN - quốc sách hàng đầu.

Phùng Trâm Anh (39 tuổi), Hòa Bình: Thẩm định, đánh giá các tổ chức KH và CN là một yêu cầu quan trọng. Vậy Bộ KH-CN có vai trò như thế nào trong nhiệm vụ này? 

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Việc thành lập các tổ chức KH và CN theo quy định của pháp luật là quyền của tổ chức, cá nhân. Bộ KH và CN là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ và QH về quản lý nhà nước đối với hoạt động KH và CN, có trách nhiệm thẩm định, đánh giá về việc tuân thủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo luật định. Riêng đối với việc thành lập các tổ chức KH và CN công lập thì việc thẩm định phải căn cứ vào quy hoạch đã được phê duyệt trên cơ sở các yêu cầu, tiêu chí đã được quy định tại điều 10 của dự thảo Luật. Các tổ chức KH và CN công lập phải đóng vai trò nòng cốt, thúc đẩy, dẫn dắt hoạt động KHCN trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các vùng kinh tế.

 

2. Đột phá cơ chế tài chính- thời gian, trách nhiệm và hiệu quả sử dụng

 
Lê Thị Châu Giang (27 tuổi), Hà Nam:Thưa ông Hải so với cơ  chế cấp phát tài chính hiện hành, cơ chế quỹ có những thuận lợi gì và chúng ta phải đổi mới cơ chế hiện nay như thế nào để phù hợp với cơ chế quỹ, thưa ông? 
 
Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Theo cơ chế quỹ như trong dự thảo Luật KH và CN (sửa đổi) thì việc cấp kinh phí cho các đề tài dự án sẽ kịp thời, phù hợp với tiến độ đặt hàng và phê duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Mặt khác, quản lý tài chính theo cơ chế quỹ sẽ chú trọng đến sản phẩm cuối cùng để đánh giá sự thành công của các nhà khoa học. Đó là sự thay đổi phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Như vậy, sau khi được phê duyệt và ký hợp đồng, các nhà khoa học sẽ được cấp ngay kinh phí để thực hiện. Vì kinh phí của quỹ là thường xuyên, nên việc xem xét, phê duyệt và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu không bị ngắt quãng theo quy hoạc 5 năm như hiện nay. Theo tôi, điểm quan trọng nhất cần phải thay đổi đói với cơ chế quản lý hiện nay đó là thay đổi quan điểm về quản lý tài chính đối với các nhiệm vụ khoa học sao cho phù hợp với tính đặc thù của nó.
 
Nguyễn Anh Thế (28 tuổi), Bắc Giang: Một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển và đóng góp của KH và CN trong tiến trình CNH - HĐH là vướng mắc về thủ tục tài chính trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu. Vấn đề này ở Viện Công nghệ Sinh học như thế nào, thưa ông Hải?
 
Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải đang giao lưu cùng độc giả

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Hàng năm, Viện Công nghệ sinh học thực hiện hàng trăm nhiệm vụ nghiên cứu các cấp từ cấp cơ sở, Bộ/ngành đến nhà nước. Việc hướng dẫn để các chủ nhiệm đề tại hiểu và thực hiện đúng các quy định về tài chính không phải lúc nào cũng đơn giản.  Nghiên cứu khoa học khác với quá trình sản xuất khi các thông số kỹ thuật chưa được xác lập chính xác mà cần được nghiên cứu để xây dựng nó. Nhiều khi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, để đạt được mục đích cuối cùng một cách hiệu quả nhất người ta phải thay đổi cách giải quyết và nội dung nghiên cứu. Do đó, việc thay đổi vật tư nguyên vật liệu trong quá trình thực hiện đề tài là điều khó tránh khỏi. Ví dụ do hóa chất vật tư đã được mua một lần trong quá trình đầu thầu cho cả năm, nên không còn kinh phí mua hóa chất, vật tư thật sự cần thiết khi đề tài có sự thay đổi nội dung nghiên cứu. Để phù hợp với tính chất nghiên cứu thì các hóa chất nên được mua dần dần theo nhu cầu của đề tài. Để tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài chính cho các nhà khoa học trong việc thực hiện các đề tài thì không nên yêu cầu các nhà khoa học lập dự toán chi tiết các nội dung kinh phí phải chi trong phần thuyết minh ban đầu để mua các nguyên vật liệu cần thiết, chỉ cần nêu các mục chi chính và kiểm soát chặt các chứng từ chi tiêu của đề tài là được.  Thế giới người ta cũng làm như vậy.

 

Tạ Đức An (38 tuổi), Hoài Đức, Hà Nội: Thưa Ông Trương Nam Hải, ông có ý kiến như thế nào về những giải pháp tài chính trong triển khai đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu mà dự thảo Luật KH và CN sửa đổi đặt ra? 

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Để khắc phục tình trạng bất cập vê cơ chế tài chính như hiện nay, dự thảo đã đề cập đến một số giải pháp cơ bản như sau: thứ nhất, khoán chi cho các nhiệm vụ khoa học công nghệ đến sản phẩm cuối cùng (Điều 54 Dự thảo). Theo tôi, đây là một giải pháp đổi mới rất quan trọng về quan điểm quản lý tài chính của hoạt động khoa học công nghệ. Bởi vì, nó sẽ tạo sự đồng bộ trong cơ chế tài chính, góp phần tiết kiệm chi phí đầu tư và nâng cao chất lượng của các sản phẩm nghiên cứu. Giải pháp này sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà khoa học chuyên tâm vào công việc nghiên cứu của mình để đạt được sản phẩm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của cuộc sống. Thứ hai, huy động tối đa nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước (chủ yếu tư doanh nghiệp) cho phát triển KH-CN. Các doanh nghiệp khoa học sẽ được hưởng những ưu đãi như miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, ưu tiên cho thuê đất, cơ sở hạ tầng... (khoản 3 Điều 21 Dự thảo). Các doanh nghiệp được hưởng chế độ ưu đãi về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp khi đầu tư vào khu cộng nghệ cao (khoản 2 Điều 21 Dự thảo); các doanh nghiệp còn được hưởng ưu tiên trong sử dụng trang thiết bị trong hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tại các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc qia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu KH-CN của Nhà nước (koản 5 Điều 21 Dự thảo). Tôi nghĩ với những ưu đãi như vậy các doanh nghiệp khoa học sẽ có lợi khi đầu tư để phát triển công nghệ mới nhằm tận dụng tối đa các lợi thế của mình. Chính điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự gắn kết giữa các nhà khoa học với doanh nghiệp. 

 

Đặng Văn Chinh (37 tuổi), Thanh Hóa: Dự thảo Luật KHCN sửa đổi có đề cập đến nội dung quy định về việc thanh quyết toán sau khi nghiệm thu nhằm tăng tính trách nhiệm và giảm bớt thủ tục hành chính khi thực hiện các nhiệm vụ KH và CN sử dụng NSNN. Nội dung này sẽ tác động như thế nào đến các nhà khoa học, những người làm nghiên cứu, thưa ông? 

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Trong Dự thảo Luật KHCN có đề cập đến chế độ khoán chi đối với nhiệm vụ KH và CN, trong đó có nói đến cam kết của bên nhận hàng cũng như việc quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH và CN dựa trên hợp đồng đã ký kết. Tôi nghĩ, điều đó là cần thiết để gắn trách nhiệm của người nhận thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Các nhà khoa học sẽ phải ý thức hơn trong việc hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao để tạo được các sản phẩm đạt yêu cầu cụ thể như đã đăng ký. 

Bế Thị Ngọc (34 tuổi), Ninh Thuận: Để phát triển KHCN cần tập trung mọi nguồn lực XH. Vậy ngoài nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước, sẽ có những chính sách gì để thu hút đầu tư tài chính cho KH và CN, thưa ông?

 

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải:  Một nội dung mang tính đột phá trong chính sách phát triển KHCN là việc khuyến khích, huy động nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho KH và CN, điều mà trước đây chưa làm được bao nhiêu. Ở các quốc gia có nền khoa học tiên tiến thì tỷ lệ đầu tư công trên đầu tư ngoài ngân sách nhà nước là 1:4, 1:5. Trong khi đó ở nước ta thì đầu tư ngoài ngân sách chỉ chiếm không quá 30% tổng đầu tư toàn xã hội cho KHCN. Để khắc phục tình trạng này, Luật KH-CN (sửa đổi) và các luật có liên quan đã quy định nhiều điều khoản để khuyến khích tổ chức cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư phát triển KHCN. Trước tiên, về chính sách vĩ mô cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng dựa vào năng suất chất lượng, hiệu quả và tính cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Để từ đó, doanh nghiệp phải hướng tới đổi mới, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao. Nói cách khác, với việc chuyển đổi này thì nhu cầu công nghệ cũng như đầu tư đổi mới công nghệ sẽ tăng cao.

Về biện pháp cụ thể, Luật KH-CN (sửa đổi) đã quy định những cơ chế khuyến khích như sau: miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các công nghệ tiên tiến phục vụ nghiên cứu phát triển công nghệ; các dự án ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến được hỗ trợ tài chính, hỗ trợ lãi vay, cho vay từ Quỹ phát triển KHCN với lãi suất ưu đãi; tổ chức, cá nhân tham gia các dự án đổi mới công nghệ được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân; những dự án công nghệ cao, ứng dụng công nghệ tại các vùng kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng ưu đãi cao nhất về thuế, tín dụng, đất đai và các ưu đãi khác. Dự thảo Luật KH-CN (sửa đổi) cũng đã quy định nhiều cơ chế thu hút nguồn lực từ nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài. Người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện KH-CN ở Việt Nam theo pháp luật Việt Nam được đối xử hoàn toàn bình đẳng như áp dụng đối với người Việt Nam; họ có thể được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt về lương, điều kiện cư trú, xuất nhập cảnh, được tôn vinh, được giao chủ trì những nhiệm vụ KH-CN quốc gia...

Tạ Thị Hòa Bình (35 tuổi), Bình Định: Thưa Viện trưởng Trương Nam Hải. Ở một số nước ngân sách được cấp trực tiếp cho người đứng đầu thực hiện đề án nghiên cứu khoa học và người đó chịu trách nhiệm trực tiếp về sự dụng nguồn lực tài chính và kết quả nghiên cứu. Ở Viện ông có thực hiện như vậy không? Tại sao?

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Ở nước ngoài, đối với các đơn vị hoạt động KHCN bao giờ cũng có hai nguồn kinh phí chính để hoạt động. Nguồn thứ nhất là kinh phí thường xuyên, được nhận từ các cơ quan chủ quản. Nguồn thứ hai là do các nhà khoa học tìm kiếm từ bên ngoài. Phụ thuộc vào chức năng, vị trí và tính chất của đơn vị, tỷ lệ giữa nguồn kinh phí thường xuyên và nguồn kinh phí từ bên ngoài có thể khác nhau. Có những đơn vị nguồn kinh phí thường xuyên được bảo đảm rất lớn so với nguồn kinh phí bên ngoài, trong những trường hợp như vậy vai trò của người đứng đầu rất quan trọng trong việc chủ động sử dụng nguồn kinh phí đó để thực hiện các nhiệm vụ theo đúng nhu cầu phát triển của Viện. Ở Viện tôi, nguồn kinh phí thường xuyên thường thấp hơn rất nhiều so với nguồn kinh phí bên ngoài. Chính vì vậy, mà vai trò của người đứng đầu cũng hạn chế trong việc sử dụng nguồn kinh phí trong việc thực hiện các nhiệm vụ của Viện. Tuy nhiên, chính điều đó khiến trách nhiệm của các chủ nhiệm đề tài rất lớn. Trong trường hợp này người đứng đầu sẽ có trách nhiệm trong việc tạo điều kiện thuận lợi nhất về mặt quản lý để các chủ nhiệm đề tài thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. 

Trần Thị Tươi (56 tuổi), Đăk Lăk: Một trong những thành công mà nhiều doanh nghiệp có được chính là nhờ sử dụng và đãi ngộ tốt cán bộ nghiên cứu. Vậy doanh nghiệp của ông đã thực hiện việc sử dụng và đãi ngộ người nghiên cứu như thế nào? Kết quả ra sao?

 

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Câu hỏi này có một phần trùng với câu hỏi tôi đã trả lời ở trên. Riêng ở đây tôi muốn trình bày một ý kiến nữa về việc đãi ngộ cán bộ nghiên cứu trong trường đại học. Trung tâm tôi trực thuộc đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Các cán bộ nghiên cứu của Trung tâm giành toàn thời gian cho việc nghiên cứu và không được dạy quá 3 tiết một tuần (quy định của Trung tâm) dù các cán bộ này có đầy đủ bằng cấp và kinh nghiệm để làm công tác giảng dạy. Trung tâm quy định không được giảng dạy nhiều nhằm bảo đảm chất luợng nghiên cứu. Thế nhưng, các bạn lại không được biên chế nghiên cứu. Đây là một thiệt thòi lớn. Tôi biết có một số ý kiến cho rằng: bản thân cán bộ giảng dạy đại học đã là người nghiên cứu nên không cần có biên chế nghiên cứu viên trong trường đại học. Thật ra, tại Việt Nam các giáo viên đại học có khối lượng giảng dạy quá lớn nên công tác nghiên cứu trở thành thứ yếu đối với họ. Để đẩy mạnh công tác nghiên cứu tại trường đại học, bắt buộc phải có lực lượng chuyên nghiệp, các thầy chỉ đóng vai trò tư vấn. Dự thảo Luật KH - CN (sửa đổi) cũng đặt vấn đề thành lập biên chế nghiên cứu viên trong đại học. Đây cũng là đột phá quan trọng thúc đẩy lĩnh vực nghiên cứu trong khối giáo dục - đào tạo.

 

 

3. Phát triển thị trường KHCN

Phan Trọng Khôi (35 tuổi), Cần Thơ: Thưa ông, đề cập tới các Trung tâm nghiên cứu khoa học là đề cập đến những sản phẩm sáng tạo phục vụ đời sống xã hội. Vậy trung tâm ông đã có những thành tựu nổi bật gì trong nghiên cứu khoa học? Điều đó mang lại ý nghĩa gì cho đời sống?

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Không phải mọi Trung tâm nghiên cứu khoa học đều tạo ra những sản phẩm phục vụ trực tiếp đến đời sống xã hội. Có những Trung tâm chuyên về nghiên cứu cơ bản và có những Trung tâm chuyên về nghiên cứu ứng dụng. Trung tâm chúng tôi là trung tâm nghiên cứu ứng dụng vì vậy sản phẩm của chúng tôi phải là những thiết bị, những hệ thống,… cụ thể phục vụ trực tiếp cho xã hội. Trong thời gian thành lập từ năm 2007 đến nay, chúng tôi đã có những bước tiến như sau: 

Năm 2008, Trung tâm đã thiết kế được chip vi xử lý 8 bit đầu tiên của Việt Nam, lấy tên là SigmaK3. Với chip này, thế giới công nhận Việt Nam đã bước vào bản đồ các nước có khả năng thiết kế chip (EE Times Asia). 

Năm 2009, Trung tâm thiết kế chip vi xử lý 8 bit mà từ tập lệnh và kiến trúc hoàn toàn thuần Việt mở đầu cho việc xây dựng một dòng chip vi xử lý thương mại của Việt Nam mà không phải lo lắng về vấn đề sở hữu trí tuệ đối với các công ty nước ngoài. Năm 2010, Trung tâm đã thiết kế chip vi xử lý 32 bit thuần Việt dùng trong các ứng dụng đòi hỏi tốc độ nhanh như : xử lý ảnh, thông tin. Năm 2010, thành viên của Trung tâm đạt giải nhất của thi thiết kế vi mạch thế giới tổ chức tại Nhật. 

Năm 2011- 2012, Trung tâm đã cùng kết hợp với Khu công nghệ cao TP Hồ Chí Minh thiết kế và chế tạo các chip cảm biến sinh học và cảm biến áp suất. Đến nay, từ một nền tảng gần như là số 0, chúng tôi đã xây dựng một đội ngũ gần 120 người, hoạt động theo tinh thần 115 (tự chủ, tự chịu trách nhiệm…), sở hữu các bằng sáng chế và giải pháp hữu ích, các bản thiết kế (IP) do mình làm ra với giá trị lên đến hơn 30 triệu USD, thành lập được công ty liên doanh bằng sản phẩm trí tuệ của mình… Cũng từ năm 2012 trở đi, chúng tôi tập trung vào việc thương mại hóa các sản phẩm của mình bao gồm: chip vi xử lý thương mại, các IP, các sản phẩm điện tử sử dụng thiết kế, chip và phần mềm của Việt Nam.

Phùng Ngọc Thanh (34 tuổi), TP Hồ Chí Minh: Tôi xin hỏi ông Ngô Đức Hoàng. Ông nói nhiều về thành tựu trong nghiên cứu công nghệ thông tin. Vậy theo ông, cơ chế chính sách hiện nay sẽ tập trung vào vấn đề nào có lợi cho phát triển công nghệ thông tin và định hướng của công nghệ thông tin của TP Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung?

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Lĩnh vực công nghệ thông tin gồm 2 mảng: phần mềm và phần cứng. Công nghệ phần mềm của Việt Nam đã được quan tâm trong thời gian dài và đã có nhiều chính sách hỗ trợ. Trong khi đó, công nghệ phần cứng nước ta hiện nay có thể gọi là công nghệ lắp ráp, công nghệ "tuốc-nơ-vít", có giá trị gia tăng rất thấp từ 3 - 5%. Giá trị xuất khẩu về phần cứng của nước ta hầu hết đều thuộc về các doanh nghiệp FDI. Gần đây, Nhà nước nói chung và UBND TP Hồ Chí Minh nói riêng đặc biệt quan tâm về việc phát triển công nghệ phần cứng. Cụ thể, sản phẩm vi mạch có tên trong danh sách sản phẩm quốc gia cũng như TP Hồ Chí Minh có chương trình phát triển công nghiệp vi mạch. Trong thời gian tới, cơ chế chính sách sẽ tập trung vào các vấn đề hỗ trợ vi mạch nói riêng và phần cứng nói chung. 

Ma Thị Quế, (47 tuổi), Hà Tĩnh: Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về KHCN, ông nhìn nhận như thế nào về thực trạng hoạt động của hệ thống các tổ chức KH và CN và sự phân bổ các tổ chức KH và CN hiện nay? 

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Ở nước ta hiện nay đã hình thành mạng lưới các tổ chức KH và CN khá lớn về số lượng, đa dạng về lĩnh vực; bao gồm: tổ chức KH và CN quốc gia (Viện hàn lâm KH và CN Việt Nam, Viện hàn lâm Khoa học XH Việt Nam...), các tổ chức KH và CN trực thuộc cơ quan trung ương, bộ, ngành, tỉnh, thành phố, các trường đại học lớn, các tổ chức KH và CN ngoài công lập khác. Trong khoảng 10 năm qua, hệ thống các phòng thí nghiệm trọng điểm đã được hình thành. Cùng với hệ thống tổ chức KH và CN là một đội ngũ nhân lực KHCN cũng khá đông về số lượng và đa dạng về lĩnh vực. Đây là lực lượng nòng cốt đang triển khai các nhiệm vụ KH và CN với quy mô khác nhau. 

Về mặt phân bố, sự liên kết giữa các tổ chức KH và CN, theo sự đánh giá hiện nay còn nhiều bất cập. Chúng ta đã có những trung tâm nghiên cứu, phát triển đạt trình độ khu vực trong một số lĩnh vực như: ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, điều chế vaccine, y học. Để khắc phục những tồn tại bất cập, Luật KH-CN (sửa đổi) đã giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành địa phương xây dựng quy hoạch mạng lưới tổ chức KH và CN trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Điều 10). Quy hoạch phải được thực hiện theo các yêu cầu và nguyên tắc: a, đáp ứng yêu cầu phát triển KHCN quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương; b, gắn hoạt động KHCN với hoạt động đào tạo, hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu KH và phát triển CN; c, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cho KHCN đặc biệt đối với các lĩnh vực KH và CN ưu tiên, trọng điểm.

Trần Trọng Lực (32 tuổi), Từ Liêm, Hà Nội: Tôi xin được hỏi ông Hoàng câu hỏi như sau: vướng mắc lớn nhất mà doanh nghiệp đang gặp phải để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ là gì?

 

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Chúng ta chia làm 2 vấn đề: vướng mắc thuộc về nghiên cứu khoa học và vướng mắc thuộc về chuyển giao công nghệ. 

Về nghiên cứu khoa học, vướng mắc lớn nhất thuộc về các quy định trong Luật KH-CN hiện hành. Hiện nay, với Dự án Luật KH - CN (sửa đổi), nhiều vấn đề đã được giải quyết. Một vướng mắc nữa thuộc về các văn bản dưới luật, các doanh nghiệp chúng tôi đang lo lắng những ưu việt của Dự án Luật KH - CN (sửa đổi) có đi vào cuộc sống một cách nhanh chóng và hiệu quả hay không? Điều này tùy thuộc vào các văn bản dưới luật, cũng như việc thực thi nghiêm chỉnh các văn bản này.  

Về chuyển giao công nghệ, vướng mắc lớn nhất là khoảng cách giữa nhà khoa học và doanh nghiệp. Hiện nay, nhiều nhà khoa học vẫn chưa tiếp cận được với doanh nghiệp vì sản phẩm khoa học hoặc công nghệ do họ tạo ra chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Một nguyên nhân nữa là kinh phí KH - CN của chúng ta đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung để tạo ra được những sản phẩm thật sự có tính thương mại cao. Cũng vì lý do này, nhiều doanh nghiệp chưa có niềm tin vào các nhà khoa học, công nghệ trong nước.

Lê Hải Như (31 tuổi), Bình Định: Thưa ông Hoàng, theo ông, cần có giải pháp nào để các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư mạnh hơn nữa cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm của mình, hơn hết là những nghiên cứu này phải được áp dụng trong thực tiễn chứ không phải cất trong ngăn tủ?  

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Có 2 giải pháp lớn: thứ nhất, là luật hoá việc đầu tư nghiên cứu khoa học của các doanh nghiệp. Dựa vào các điều khoản của luật, doanh nghiệp đầu tư vào KH - CN sẽ được ưu đãi về thuế, đất... Điều này đã được thể hiện khá rõ trong Dự án Luật KH - CN (sửa đổi). Luật cũng khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng Quỹ Phát triển KH - CN và được quyền tự chủ sử dụng quỹ này. Đây cũng là một đột phá lớn của Dự án Luật KH - CN (sửa đổi) lần này.

Thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ KH - CN, được xem như Tổng tư lệnh KH - CN của đất nước, ngân sách KH - CN cần phải được đầu tư tập trung nhằm tạo ra những lĩnh vực mũi nhọn, những sản phẩm đột phá, thật sự có tính ứng dụng và tính thương mại cao. Đồng thời, việc giao nhiệm vụ KH- CN được thực hiện theo cơ chế đặt hàng và đơn vị đặt hàng phải có trách nhiệm triển khai ứng dụng các sản phẩm này. Có như vậy, những nghiên cứu khoa học mới được áp dụng vào thực tiễn chứ không phải cất vào ngăn tủ. 

Lý Văn Nhơn (29 tuổi), Lâm Đồng: Thưa ông, người dân quan tâm gì đến hoạt động KHCN của doanh nghiệp? Họ là người quyết định chính sách, sản phẩm KHCN hay doanh nghiệp, hay nhà nước? 

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Thực ra, người dân rất quan tâm về KH - CN, phần lớn người dân đều hiểu rằng, giá trị gia tăng của công nghệ cao là rất lớn. Bản thân mỗi người dân đều mong muốn Việt Nam đến một lúc nào đó sẽ có các "đại gia" về công nghệ cao như Apple, Samsung... Tuy nhiên, người dân không thể là người quyết định chính sách, sản phẩm KH - CN. Việc ban hành chính sách thuộc về các ĐBQH, Chính phủ. Vì thế, việc thẩm định và phê duyệt Luật KH - CN (sửa đổi) lần này là trách nhiệm lớn lao của các nhà làm chính sách, có ảnh hưởng đến sự nghiệp KH - CN của đất nước đến vài chục năm sau.  

Còn doanh nghiệp cũng không thể là người quyết định chính sách, nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc thực hiện chính sách. Họ có tiếng nói đến Chính phủ thông qua chính bản thân các doanh nghiệp hoặc các hiệp hội. Bản thân TP Hồ Chí Minh cũng có một chương trình nghiên cứu chính sách cho lĩnh vực vi mạch bán dẫn và giao cho Hội Vi mạch bán dẫn TP Hồ Chí Minh thực hiện. Hội Vi mạch bán dẫn TP Hồ Chí Minh sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp vi mạch tại TP Hồ Chí Minh, đối thoại với các cơ quan Nhà nước về việc thực thi các chính sách.
 
Phạm Văn Tiên (56 tuổi), Bà Rịa- Vũng Tàu: Vấn đề đặt hàng đã được đề cập đến rất nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên hiện vẫn còn nhiều kết quả nghiên cứu khoa học chưa được đưa vào thực tiễn? Với cương vị là một doanh nghiệp, ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào? 
 
GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng, sản phẩm cuối cùng phải đóng góp đuợc cho sự phát triển kinh tế- xã hội, trong đó hầu hết được thể hiện bằng việc thương mại hoá sản phẩm. Chính vì thế, khi xét đến nhiệm vụ KH - CN ứng dụng, chỉ tiêu quan trọng là phải có đơn vị đặt hàng. Quan điểm này đã được thực hiện trong thời gian gần đây, nhưng chưa hoàn toàn triệt để, dẫn đến còn nhiều nghiên cứu KH - CN chưa đi vào thực tiễn. Lần này, Dự án Luật KH - CN (sửa đổi) đặt ra vấn đề đặt hàng một cách chi tiết, rõ ràng và thể chế hoá. Đồng thời, luật cũng đưa ra cơ chế nghiệm thu, đánh giá kết quả một cách chặt chẽ. Nếu việc thực thi đặt hàng, nghiệm thu đúng theo những điều khoản trong luật thì tôi tin rằng, đất nước ta sẽ có nhiều sản phẩm mạnh, công nghệ tốt trong thời gian vài năm tới.
Trần Thị Hồng Cảnh (36 tuổi), Quỳnh Phụ, Thái Bình:Tôi là người dân, tôi được thụ hưởng rất nhiều từ thành tựu KHCN, nhưng chúng tôi lại không quan tâm làm thế nào để có những thành tựu KHCN?

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Cái này là lỗi của các nhà quản lý và nhà khoa học khi chưa biết cách làm thế nào để người dân hiểu được tại sao cần phải phát triển KH và CN.

Vi Văn Đôn (34 tuổi), Sơn La: Những kết quả nghiên cứu khoa học của doanh nghiệp là đơn vị được hưởng lợi rất nhiều. Vậy tại sao các doanh nghiệp không mặn mà với việc đầu tư phát triển KHCN. Theo ông, cần có những giải pháp nào để khuyến khích doanh nghiệp quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ? 

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Tôi nghĩ rằng, các doanh nghiệp sẽ trả lời câu hỏi này tốt hơn tôi. Nhưng theo tôi, doanh nghiệp nào quan tâm đến việc tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao, chắc chắn họ sẽ quan tâm đến việc ứng dụng và đầu tư phát trển KHCN. Các chính sách của Nhà nước cũng ảnh hưởng rất nhiều đến mức độ quan tâm của doanh nghiệp cho đầu tư phát triển KHCN. Ví dụ, nếu chính sách của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm thì lúc đó doanh nghiệp chắc chắn sẽ đầu tư để phát triển công nghệ của mình, lúc đó họ sẽ cần đến KH và CN. Một nền sản xuất nếu chỉ hướng vào việc nhập khẩu các linh kiện để lắp ráp thì khoa học khó có chỗ đứng. 

Nguyễn Trần Lâm (34 tuổi), Xuân Hương: Dự thảo Luật KH và CN sửa đổi quy định doanh nghiệp có toàn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng quỹ đúng mục đích thành lập. Điều này phù hợp với yêu cầu hoạt động KHCN của doanh nghiệp, thưa ông?
 
GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Như tôi đã trả lời ở các câu hỏi trên, để huy động nguồn lực của toàn xã hội, Dự thảo Luật KH - CN (sửa đổi) khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ Phát triển KH - CN và quy định doanh nghiệp có toàn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng quỹ đúng mục đích thành lập. Đây là yếu tố mới trong Luật KH - CN và phù hợp với yêu cầu hoạt động KH - CN của doanh nghiệp. Nhưng điều tôi băn khoăn là trong luật chưa nêu rõ biện pháp thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quỹ này có thực sự phục vụ cho mục đích KH - CN hay không. Nếu không làm chặt chẽ điều này thì sẽ dẫn tới một hệ lụy là nguồn thu thuế chúng ta bị giảm mà sự nghiệp KH - CN cũng không được đóng góp gì.

Phan Vũ (47 tuổi), Bắc Ninh: Tôi là người kinh doanh, tôi xin hỏi ông doanh nghiệp của ông trả lương cho những người tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học thế nào? Họ có chế độ ưu đãi gì không? Có thu nhập tốt không? Làm thế nào để họ gắn bó với doanh nghiệp và cống hiến hết sức mình? 
 
GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng: Trong nền kinh tế thị trường, việc giữ được nguồn nhân lực nghiên cứu chất lượng cao luôn là một vấn đề khó khăn của doanh nghiệp. Bản thân doanh nghiệp chúng tôi cũng phải cạnh tranh về nguồn nhân lực với các công ty nước ngoài hoạt động cùng lĩnh vực. Nếu nói về lương cơ bản, chúng tôi không thể trả bằng các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, trong suốt 6 năm hoạt động, số lượng chuyên viên rời bỏ chúng tôi rất ít và rất nhiều nhân viên của các công ty nước ngoài gia nhập vào doanh nghiệp chúng tôi. Để làm điều đó, chúng tôi thực hiện các nguyên tắc sau: thứ nhất, lương cơ bản phải bảo đảm cuộc sống cho nhân viên (ví dụ: kỹ sư mới ra trường có mức lương tối thiểu 6 triệu đồng, thạc sỹ có mức lương tối thiểu là 10 triệu đôngg, tiến sỹ là 20 triệu...). Thứ hai, sản phẩm hoặc công nghệ sau khi thương mại sẽ được trích một phần lợi nhuận cho các tác giả. Thứ ba, chúng tôi luôn luôn khơi dậy niềm tự hào về công nghệ Việt, trí tuệ Việt cho toàn thể nhân viên.

Trần Thái Nam (28 tuổi), Hà Nội :Tôi xin hỏi ông Viện trưởng Trương Nam Hải câu hỏi như sau: trong nghiên cứu KH, mục tiêu, hiệu quả kinh tế có được đặt ra không? Làm sao để đánh giá được hiệu quả kinh tế của các đề tài nghiên cứu khoa học?

 

Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Trong nghiên cứu khoa học thì một trong những mục tiêu là đem lại hiệu quả kinh tế cho sản xuất và xã hội. Tuy nhiên, hoạt động khoa học thường mang tính tìm kiếm cái mới, đòi hỏi tính sáng tạo nên đôi khi có sự rủi ro trong nghiên cứu. Vì vậy, để đạt được mục đích cuối cùng nhiều khi các nhà khoa học phải thực hiện rất nhiều nghiên cứu khác nhau mà đôi khi có những nghiên cứu chưa mang lại hiệu quả như mong đợi. Chính điều đó khiến nhiều người nghĩ rằng nghiên cứu khoa học chưa mạng lại hiệu quả kinh tế như mong đợi. Tuy nhiên, một khi kết quả nghiên cứu thành công thì hiệu quả kinh tế mà nó đem lại rất to lớn. Ví dụ, hiện nay, trong lĩnh vực công nghệ sinh học hiện đại việc ứng dụng công nghệ gen đã mang lại hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn trong việc tạo ra các sản phẩm phục vụ cho y tế, nông nghiệp, công nghiêp và an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, để có được những thành tựu của công nghệ gen, các nhà khoa học đã phải tìm tòi, nghiên cứu rất lâu dài và vất vả để tìm ra được cách thức hiệu quả nhất trong việc tạo ra các sản phẩm của công nghệ gen. 

Một công trình nghiên cứu khoa học được đánh giá là có hiệu quả kinh tế khi nó đưa ra được công nghệ sản xuất mới, để tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng vượt bậc so với sản phẩm được sản phẩm được sản xuất bằng các phương pháp trước đó.
 
Lê Văn Mạnh (25 tuổi), TP Hồ Chí Minh: Thưa ông, vừa là người nghiên cứu, vừa là người kinh doanh trong KHCN, điều này gặp nhiều khó khăn thưa ông? Ông có thể chia sẻ những kinh nghiệm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học?

GĐ TT Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch Ngô Đức Hoàng:  Tôi hiểu nó như là một câu hỏi dành cho người làm nghiên cứu ứng dụng, phải vừa nghiên cứu khoa học vừa kinh doanh sản phẩm nghiên cứu của mình. Tôi xin trả lời như sau: 

Bản thân là người đứng đầu một Trung tâm nghiên cứu ứng dụng, tôi phải lãnh đạo một tập thể nghiên cứu và phải tạo ra sản phẩm mới, công nghệ mới phục vụ lợi ích của con người và xã hội thông qua nhiều con đường mà phần lớn là bằng việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Như vậy, đó là hai nhiệm vụ không thể tách rời của người lãnh đạo. Đã là nhiệm vụ thì tôi phải lường trước được những khó khăn cũng như khả năng của tôi để đảm đương cương vị. Một cương vị như vậy đòi hỏi không chỉ có khả năng khoa học công nghệ để dẫn dắt đội ngũ nghiên cứu mà còn phải tính đến sản phẩm, công nghệ đầu ra: sản phẩm đó phải có mẫu mã, phải có tính năng, ưu thế kỹ thuật, giá thành… sao cho nó thuyết phục được doanh nghiệp chấp nhận chuyển giao công nghệ hoặc chấp nhận Trung tâm góp vốn bằng công nghệ, sản phẩm do mình làm ra. Theo tôi, lãnh đạo một Trung tâm nghiên cứu ứng dụng không nên chỉ là một nhà nghiên cứu giỏi mà còn phải có… máu kinh doanh. 
 
Phần sau của câu hỏi  khá chung chung. Tôi hiểu nó ám chỉ việc thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học trong nội bộ đơn vị mà mình đang quản lý. Nếu vậy, tôi xin trả lời như sau: 
 
Động lực mạnh mẽ nhất đối với nhà nghiên cứu ứng dụng là được thấy sản phẩm nghiên cứu của mình được đưa vào cuộc sống, được ứng dụng rộng rãi phục vụ xã hội và…đem đến nguồn thu nhập xứng đáng cho mình. Tôi để ý thấy rằng các bạn trẻ trong Trung tâm tôi rất khao khát được thấy sản phẩm do mình tạo ra được doanh nghiệp đón nhận, sản xuất hàng loạt, có mặt trên thị trường. Điều đó làm cho nhà nghiên cứu cảm thấy tự hào và quan trọng nữa là lợi nhuận sinh ra từ sản phẩm cũng đem đến cho họ một nguồn thu nhập đáng kể. Càng cải tiến, càng phát triển tính năng cho sản phẩm thì doanh thu càng cao và họ càng tăng thu nhập. Thậm chí trong Trung tâm tôi có tâm lý ganh đua để tạo ra nhiều và nhiều sản phẩm hơn nữa giữa các nhóm nghiên cứu khác nhau. 
 
Hồng Bé (24 tuổi), Khánh Hoà: Tôi là người kinh doanh, tôi muốn hỏi ông là hoạt động KH-CN có quan tâm đến hiệu quả kinh tế không, có trực tiếp giải quyết nhu cầu của thị trường, của đời sống xã hội không? 
 
Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học Trương Nam Hải: Trong hoạt động KH-CN có hai dạng nghiêm cứu chính đó là nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Đối với các nghiên cứu cơ bản thì hiệu quả kinh tế nhiều khi chưa thể xác định ngay được, thế nhưng hiệu quả về lâu dài thì khó lường. Hiệu quả của nghiên cứu cơ bản rất đa dạng liên quan đến vấn đề phát triển khoa học, đào tạo và xây dựng tiềm lực. Có những kết quả dạt được từ nghiên cứu cơ bản sau đó là đem lại hiệu quả kinh tế gấp hàng trăm đến hàng nghìn lần so với phương thức sản xuất cũ. Nghiên cứu ứng dụng đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu chính và phải đạt được trong thời gian sớm nhất có thể. Điểm xuất phát của nghiên cứu cơ bản thường là từ ý tưởng khoa học của các nhà nghiên cứu, còn xuất phát điểm của nghiên cứu ứng dụng thường là các nhu cầu cụ thể của thực tiễn. Dù là cơ bản hay ứng dụng thì mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu khoa học vẫn là đáp ứng nhu cầu của cuộc sống, giúp làm tăng hiệu quả của quá trình sản xuất.
 
Kim Dung (28 tuổi), Nghệ An:Thưa ông Nghiêm Vũ Khải. Được biết, trong Dự thảo Luật KH và CN sửa đổi có nội dung thực hiện nghiên cứu ứng dụng KH và CN theo đặt hàng của Chính phủ, các Bộ, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và tổ chức khác. Ông có thể chia sẻ rõ hơn về điều này?

 

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Đặt hàng thực hiện nhiệm vụ KH-CN là việc cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác đưa ra nhiệm vụ khoa học công nghệ cụ thể với những yêu cầu về sản phẩm khoa học công nghệ dự kiến cần đạt được và giao cho tổ chức, cá nhân hoạt động KH-CN thực hiện. Cơ chế này góp phần khắc phục tình trạng khá phổ biến là trong nhiều trường hợp nhà khoa học, tổ chức khoa học và công nghệ đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu dựa trên sở trường, năng lực hiện có của mình mà chưa chú trọng đến tính cấp bách, hiệu quả của hoạt động nghiên cứu. Tình trạng này đã làm cho việc sử dụng nguồn lực chưa sát với nhu cầu của thực tiễn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước xuất phát từ nhu cầu thực tiễn có thể đề ra những nhiệm vụ KH-CN nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của quốc gia, ngành, địa phương. Ngoài ra, các tổ chức cá nhân khác căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, nhu cầu của mình cũng có thể đặt hàng với tổ chức cá nhân hoạt động KH-CN thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Việc đặt hàng có thể thực hiện bằng hình thức hợp đồng hoặc hình thức khác. 

ĐBND: Bạn đọc thân mến, Đổi mới cơ chế chính sách - đột phá phát triển khoa học công nghệ là chủ đề cấp thiết mà cuộc sống đang đặt ra cho lĩnh vực KHCN, xác định là then chốt, động lực cho phát triển KT- XH; và đây cũng là vấn đề ĐBQH quan tâm khi xem xét Luật KHCN sửa đổi. Bạn đọc cũng rất quan tâm đến vấn đề này và gửi nhiều câu hỏi cho 3 khách mời tham gia giao lưu trực tuyến. Tuy nhiên, do thời gian có giới hạn, xin được tạm dừng giao lưu tại đây. Báo ĐBND xin trân trọng cám ơn bạn đọc. Xin hẹn vào lần giao lưu tiếp sau. 

Thứ trưởng Bộ KH-CN Nghiêm Vũ Khải: Thay mặt các khách mời, chân thành cám ơn bạn đọc của Báo ĐBND.

ĐBND