KỶ NIỆM 76 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM (22.12.1944 - 22.12.2020)

Những chiến công mang tầm vóc thời đại

- Thứ Ba, 22/12/2020, 08:09 - Chia sẻ

  TS Trần Hữu Huy

Hội Khoa học lịch sử Việt Nam

Quân đội Nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được Nhân dân hết lòng tin yêu, đùm bọc, nuôi dưỡng. Trải qua chặng đường 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, đội quân cách mạng ấy đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ lập nên nhiều chiến công mang tầm vóc thời đại, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả với các nước anh em.

“Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”

 Bước vào nửa cuối năm 1944, tình hình thế giới và trong nước chuyển biến mau lẹ theo hướng ngày càng có lợi cho cách mạng. Để chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, ngày 22.12.1944, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo (châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), do đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Đây là sự kiện lịch sử đặc biệt, đánh dấu một tổ chức quân sự mới ra đời ở nước ta - Đó là đội quân chủ lực cách mạng đầu tiên, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Vừa mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mưu trí, dũng cảm tiến công tiêu diệt hai đồn địch tại Phai Khắt (25.12.1944) và Nà Ngần (26.12.1944), gây tiếng vang lớn, mở đầu cho những trang sử hào hùng của quân đội ta. Tháng 5.1945, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân cùng các tổ chức vũ trang cách mạng khác hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân, tiếp tục củng cố, phát triển hơn nữa về lực lượng.

Tháng 8.1945, phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh, thời cơ xuất hiện, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Việt Nam giải phóng quân cùng đồng bào tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa đập tan xích xiềng nô lệ, giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2.9.1945) - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do cho dân tộc, đồng thời cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa trên thế giới.

Nhưng không lâu sau, thực dân Pháp được các thế lực phản động quốc tế giúp sức trở lại xâm lược nước ta hòng thiết lập lại chế độ cai trị, nô dịch thuộc địa như cũ. Dưới ngọn cờ của Đảng và Chính phủ kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam nêu cao quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, kiên trì, bền bỉ tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ kéo dài 9 năm. Trong cuộc chiến đấu đầy cam go thử thách này, Quân đội Nhân dân Việt Nam luôn đóng vai trò làm nòng cốt, không ngừng phát triển, càng đánh càng mạnh, lập nên những chiến thắng vang dội, như chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến dịch Biên giới (1950), chiến dịch Hòa Bình (1951 - 1952), chiến dịch Tây Bắc (1952)...

Đặc biệt, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Geneva (21.7.1954) tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cả ba nước Đông Dương, cam kết rút quân về nước. Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại, Quân đội nhân dân Việt Nam với trang bị còn nhiều thô sơ đã đánh bại hoàn toàn đội quân một cường quốc thực dân phương Tây, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.

Viết nên “câu chuyện thần kỳ” của thế kỷ XX

Sau khi thực dân Pháp thất bại, đế quốc Mỹ tìm cách “lấp chỗ trống”, tiến hành xâm lược, âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự, rồi dùng miền Nam làm bàn đạp để tiến công miền Bắc, ngăn chặn làn sóng cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa tại khu vực Đông Nam Á. Mỹ đã huy động lúc cao nhất 55 vạn quân viễn chinh, 7 vạn quân đồng minh, hợp cùng với hơn 1 triệu quân của chế độ Sài Gòn để chống lại nhân dân và cách mạng Việt Nam. Chúng đã chi trực tiếp cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam lên tới 676 tỷ USD, sử dụng hơn 7,8 triệu tấn bom đạn các loại...

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam kéo dài hơn hai thập niên (1954 - 1975) là cuộc chiến tranh dài ngày ác liệt nhất, quy mô lớn nhất thời đại. Trong cuộc chiến lịch sử này, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, cùng toàn Đảng, toàn dân vượt mọi hy sinh, gian khổ, nêu cao tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục viết nên “câu chuyện thần kỳ” của thế kỷ XX đánh tan xâm lược. Những chiến thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam như Ấp Bắc (1963), Bình Giã (1964 - 1965), Vạn Tường (1965), Plâyme (1965), Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), Đường 9 - Khe Sanh (1968), cuộc tiến công chiến lược 1972, chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng (1972),... đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với quân địch.

Cuối cùng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã đập tan quân đội, chính quyền Sài Gòn, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mở ra kỷ nguyên mới cho cách mạng Việt Nam: Kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi vĩ đại này còn mang tính thời đại sâu sắc, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Không chỉ lập nên chiến công vang dội trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, Quân đội Nhân dân Việt Nam còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế trong sáng cao cả với các nước anh em Lào, Campuchia. Do cùng có nhiều nét tương đồng gắn bó về điều kiện tự nhiên, lịch sử - văn hóa, lại có chung kẻ thù xâm lược, nên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm vun đắp cho tình đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương, coi đây là một trong những nhân tố giữ vai trò quyết định đến thắng lợi sự nghiệp cách mạng mỗi nước (cả trong thời chiến cũng như thời bình). Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cử nhiều đơn vị quân tình nguyện sang giúp đỡ cách mạng Lào, cách mạng Campuchia theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”.

 Dù phải đối diện với muôn vàn khó khăn gian khổ (hoạt động tại những chiến trường rừng núi xa xôi, điều kiện thời tiết khắc nghiệt, dân cư thưa thớt, kẻ thù tàn bạo...), nhưng quân tình nguyện Việt Nam luôn chấp hành tốt mọi chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cán bộ, chiến sĩ Việt Nam coi đất nước và nhân dân bạn như đất nước và nhân dân mình, tôn trọng đoàn kết, hết lòng giúp đỡ, kề vai sát cánh cùng phía bạn chiến đấu giành thắng lợi giòn giã, như các chiến dịch: Thượng Lào, Hạ Lào (1954), Đông Bắc Campuchia (1970), Đường 9 - Nam Lào (1971), Đông Bắc Campuchia (1971)... góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.

Đặc biệt, quân tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng thủ đô Phnôm Pênh (ngày 7.1.1979) lật đổ chế độ Pôn Pốt, giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng và thực hiện công cuộc hồi sinh đất nước kéo dài trong suốt 10 năm (1979 - 1989). Đây thực sự là một trong những minh chứng sống động, rõ nét nhất về nghĩa tình thủy chung và tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào và Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam đã để lại hình ảnh tốt đẹp trong lòng nhân dân, được nhân dân nước bạn tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ. Hàng chục vạn cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện đã hy sinh, góp phần vun đắp cho quan hệ hữu nghị đặc biệt trong sáng, gắn bó của nhân dân ba nước Đông Dương.

Kỷ niệm Ngày Thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, chúng ta càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về những chiến công mang tầm vóc thời đại, tự hào hơn về đội quân cách mạng anh hùng, đúng như lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.