Nước sông Hằng từ trên trời đổ xuống

- Chủ Nhật, 16/05/2021, 07:38 - Chia sẻ
Trước đại dịch Covid-19, Ấn Độ thường được mô tả như một nơi mà người ta vừa yêu vừa ngần ngại; một vùng đất chưa bao giờ yên tĩnh, đông đúc, lộn xộn, thánh thiện và đầy màu sắc...

Trời cao, sông thẳm, đất dày

Tôi đến Varanasi lúc trời vừa tờ mờ sáng. Khách sạn tôi chọn nằm bên bờ sông Hằng, đứng ở ban công có thể ngắm cảnh sông rất rõ. Đây chính là con sông mà người theo đạo Hindu vô cùng tin yêu vào sự thánh khiết trong lành được hình thành bởi những giọt nước từ tóc thần Shiva nhỏ xuống.

Lòng sông không rộng như tôi tưởng, mặt nước vẩn đục, những tảng rác lững lờ trôi. Rõ ràng đây không phải là dòng sông để ngắm cảnh mà để dùng vào việc tâm linh. Nước sông nơi đây có đoạn chuyển hướng rất thần kỳ, hướng chảy chuyển từ Nam sang Bắc và chỉ ở đoạn Varanasi. Bờ Tây của sông là Ghat kéo dài vài km. Ghat là các bậc tam cấp bằng đá kéo từ bờ đến ven sông. Hầu hết các Ghat là bãi tắm, và một số là bãi hỏa táng (burning ghat), một số để đi đến đền thờ và một số dùng để phơi quần áo. 

Tôi đang loay hoay xem liệu mình có can đảm lao xuống tắm không, vì đã thấy nhấp nhô người đến tắm. Bờ tắm phía Tây đông người hơn bởi đa phần các tín đồ đều ngoảnh mặt về hướng Đông khi tắm. Tôi thấy một số người kính cẩn khoát nước lên đầu cho nước từ từ chảy xuống, rồi đưa nước lên miệng kính cẩn uống từng ngụm.

Varanasi quả như một vườn thú. Chim câu bay lượn trên bầu trời, những chú bò thong dong rảo bước, mấy chú dê núp dưới bóng râm, còn những con khỉ lượn lờ tìm xem liệu có quả chuối nào đâu đây. Một cậu thanh niên bịt kín đầu chỉ hở đôi mắt đang cầm chổi quét mặt đường như đang múa kungfu. Một trưởng lão râu tóc trắng xóa quấn trên đầu chiếc khăn đỏ chót, quàng trên người mảnh chăn cũng đỏ chót đang ngồi trên bậc đá giở báo ra xem. Những kiến trúc lộn xộn nhưng đủ màu sắc, những con người đủ kiểu, mỗi người một vẻ, công nhận ở đây có vẻ riêng biệt của nó...

Buổi chiều, tôi quyết định đi thăm vườn Lộc Uyển, Sarnath cách Varanasi 10 cây số. Sarnath là thánh địa nơi Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp đầu tiên, có thánh tích và bảo tàng Phật giáo.

Bảo tàng được bảo vệ chặt chẽ, khách tham quan phải đi qua cổng an ninh. Ở đây có nhiều tượng Phật còn lại trong thời cực thịnh của Phật giáo và vẫn còn khá tinh xảo. Trong phế tích, nhìn thấy Bảo tháp Dhamek cao 34 mét đầy ấn tượng, nơi Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu bài giảng đầu tiên. Vào lúc hoàng hôn, những tín đồ sùng đạo ngồi trên bãi cỏ dưới bóng râm của chiếc tháp khổng lồ, họ đối mặt với bảo tháp và im lặng thiền định. Liệu họ có nghe thấy lời thuyết pháp của Đức Phật cách đây hơn 2500 năm đang vọng về? Cái gọi là phế tích thực ra đã biến thành một công viên với thảm cỏ xanh rờn.

Ảnh: Phó Đức An

Nước và Lửa

Ở Ấn Độ, hầu hết các tín đồ Ấn Độ giáo có bốn thú vui lớn mà họ ước mơ trong đời là: Sùng kính Thần Shiva, tắm và uống nước thánh của sông Hằng, kết bạn với các vị thánh nhân, và được sống ở thánh địa Varanasi. Sông Hằng nuôi dưỡng người dân hai bên bờ những dòng sữa ngọt ngào (với phần hồn của nó), cùng với tín ngưỡng sùng đạo, họ coi đây là dòng sông thiêng liêng và thánh thiện.

Sự tôn thờ này nghe nói bắt nguồn từ một câu chuyện huyền thoại. Thuở xa xưa, sông Hằng dữ dằn và thường xuyên gây ra lũ lụt. Để cầu an, vị vua thời bấy giờ đã nhờ thần Shiva giúp thuần hóa sông Hằng và tạo phúc cho nhân gian. Thần Shiva đến chân núi Himalaya, xõa tóc, cho dòng nước hung tợn chảy chầm chậm qua đầu và trở nên hiền dịu. Nước bắt đầu tưới mát cho những cánh đồng hai bên bờ sông và người dân có thể sinh sống thanh bình, yên ổn làm ăn. Kể từ đó, Ấn Độ giáo coi sông Hằng là thánh thiện, tôn thờ thần Shiva và tắm nước thánh là hai hoạt động tôn giáo chính của người theo đạo Hindu. 

Sau một ngày mệt mỏi, tôi đã có được một giấc ngủ sâu bên dòng sông thần tiên và tỉnh dậy bởi tiếng chuông tay của một Lạt Ma đi ngoài đường. Một cậu bé nhà thuyền bám lấy khăng khăng đòi đưa tôi đi du thuyền trên sông buổi sáng. Vừa chèo, cậu vừa giới thiệu cảnh tượng hai bên bờ bằng một thứ tiếng Anh pha Ấn rất khó nghe. Những làn khói nghi ngút bốc lên từ bên bờ đốt tử thi, không có tiếng gào khóc, cảnh tượng an nhiên cát tường. Mặt trời lúc ấy cũng đã ló mặt nhìn xuống, bắt đầu một ngày huy hoàng của sông Hằng. 

Khi thuyền đi đến một đoạn bên bờ Đông, tôi thấy ở đây vắng vẻ ít người, liền đề nghị thuyền ghé vào Ghat, đợi tôi tắm một cái để thỏa mãn nỗi lòng bấy lâu. Tuy rằng dòng nước vẫn lững lờ những rác thải và mùi khai tanh nồng nàn trên bờ tạt vào mũi nhưng chí đã quyết, tôi hình dung ra trước mắt là dòng sữa trong sạch của nữ thần sông Hằng và nhắm mắt nhảy xuống. Kỳ lạ thay, khi đã đẫm mình dưới dòng sông mới thấy người nhẹ bỗng, thấy tim đập êm dịu, hồn lâng lâng chìm trong một trạng thái thanh thản, thoát tục, hoan hỉ. Lúc này nhìn dòng sông thấy đẹp đẽ, lộng lẫy lạ kỳ. Tôi vẫy vùng dưới sông, cảm giác thân thương, cảm động như thu mình trong lòng mẹ. 

Háo hức mong cho ngày dài trôi mau để được hòa mình cùng buổi lễ tế đêm. Lễ tế đêm sông Hằng (Ganga Aarti) có lịch sử hơn ba nghìn năm, được tổ chức hàng đêm bất kể mưa hay nắng khán đài luôn chật kín người. Đây là một sự tôn vinh đối với dòng sông thiêng, cũng là một nghi lễ để giao tiếp và kết nối giữa con người và thần linh.

Cốt lõi của Lễ tế đêm là lửa. Các thầy cúng sử dụng các dụng cụ khác nhau để diễn tả các hình thức khác nhau của ngọn lửa, từ que hương, chân nến cho đến chậu lửa. Bởi vì bản thân đây là "lễ tế lửa" - Agni Pooja, hiến tế cho thần Shiva, thần mặt trời (Surya), thần lửa, nữ thần sông Hằng, và cả vũ trụ. Agni là thần lửa trong Ấn Độ giáo, và Pooja có nghĩa là cầu nguyện và hiến tế.

Buổi lễ được tiến hành với nhịp độ chậm rãi, hiện trường chỉ có những lời ca bằng tiếng Phạn ngân dài, giai điệu an nhiên của chuông tay và bảy nam tư tế Bà la môn trẻ tuổi có đẳng cấp cao nhất, đang thì thầm khẽ hát.

Trước khi làm lễ, bảy vị tư tế đi xuống sông Hằng múc nước thánh, sau đó xếp thành hàng trước bàn thờ, họ thổi pháp khí bằng ốc biển để báo hiệu buổi lễ bắt đầu. Xuyên suốt Lễ tế đêm sông Hằng, các thầy tế lần lượt dùng chuông tay, đèn bảo tháp bảy tầng, pháp khí ốc biển, đèn dầu hình rắn đuôi chuông, quạt lông công, phất trần và các nhạc cụ khác để cúng trời đất tứ phương. Sau khi các nghi lễ khác nhau lần lượt xuất hiện trên lễ đàn, các tư tế rưới nước thánh vào những lẵng hoa xung quanh, sau đó đổ nước sông Hằng còn lại trở về sông để báo hiệu sự kết thúc của buổi Lễ tế đêm.

Từ đầu đến cuối, tôi đắm mình trong không khí lễ tế, vừa thành kính, vừa kinh ngạc. Tôi đúc kết ra rằng, Ấn Độ giáo có thể nói là dung hòa hoàn hảo giữa hai nguyên tố đối lập là nước và lửa. Nước và lửa vừa là sức mạnh hủy diệt, vừa là sức mạnh thanh tẩy, đồng thời là sức mạnh của tạo hóa...

Mặc dù buổi lễ đã kết thúc nhưng bảy vị tư tế nam Bà La Môn vẫn không rời đi, họ trở lại bàn thờ và chuẩn bị phân phát lương thực của thánh cho mọi người. Đấy là các loại hạt như gạo, ngô, đậu, lạc, mọi người đều đưa tay ra đón lấy. Có nhiều người đứng trước ngọn đèn dầu, hai lòng bàn tay hơ trên nguồn lửa, rồi vò đầu vò tai cầu phúc. Một số nhặt những bông hoa trên tế đàn thả xuống sông Hằng hoặc mua những đèn thuỷ đăng thả xuống sông chắp tay cầu nguyện. Sau đó, họ còn lấy tay múc nước uống vài ngụm ngon lành rồi mới lưu luyến ra về. 

Chỉ khi chứng kiến những cảnh tượng này mới cảm nhận được lòng mộ đạo tuyệt đối của tín đồ Hindu và đạo đức đẹp đẽ của họ đối với truyền thống văn hoá tôn giáo đã được lưu truyền hàng ngàn năm.

Đêm hôm ấy, có những ngọn đèn trong cõi u minh của tâm hồn tôi được thắp sáng, ngộ ra nhiều điều hơn.

Một dòng cuộn chảy

Dễ thường, người ngoại đạo khi nhắc đến Varanasi, sông Hằng... đều rùng mình khiếp đảm. Sông Hằng trở thành đại từ thay cho hai từ "ô nhiễm". Điều đó là thật, nhưng ẩn chứa nơi đây là phần hồn của một đạo giáo già cội. Dựa trên sức mạnh của nó, con người bao dung chấp nhận mọi khiếm khuyết kể trên. Nhưng dù có lập luận đến đâu với tầm nhìn đương đại đều thấy mâu thuẫn và khó chấp nhận. Chỉ khi bạn cho rằng, cuộc đời là cõi tạm để bước đến một thế giới khác, sống với tâm linh chứ sá chi tiền nhãn. Nghĩ vậy chắc bạn thấy yên tâm hơn và chấp nhận hoàn cảnh nơi đây hơn.

Xuyên ngược về hàng ngàn năm trước, bạn hỏi một người dân ở xứ sở này rằng dòng sông này đến từ đâu? Anh ta sẽ trả lời một cách đanh thép rằng, "sông Hằng là nước trên trời đổ xuống". Trí tưởng tượng của họ là chủ nghĩa lãng mạn, kém chi câu thơ Đường của Lý Bạch: "Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai/ Bôn lưu đáo hải bất phục hồi" (Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống/ Trôi ra biển và không quay trở lại).

Hằng hà là dòng sông thần thánh mang nặng màu sắc văn hóa dân gian, vô vàn huyền thoại và truyền thuyết tôn giáo thiết lập nên cảnh tượng đặc biệt về phong tục nhân tình hai bên bờ sông.     

 "Sông Hằng từ trên trời đổ xuống", vì vậy nó là kênh kết nối giữa thế giới phàm trần và thiên giới, thông qua sông Hằng có thể thiết lập mối liên hệ với các vị thần, và có thể nhận được phước lành và quyền năng từ thiên giới.

Sông Hằng cuối cùng cũng sẽ chìm xuống âm phủ dưới đáy đại dương nên nó cũng là kênh kết nối giữa thế giới phàm trần và âm phủ, có sức mạnh cứu chuộc người chết. Sự chuộc tội có thể nhận được bằng cách thủy táng người chết hoặc thả tro của họ xuống sông Hằng.

Kết hợp hai điểm trên, Ấn Độ giáo tin rằng sông Hằng đồng thời tuôn chảy trong ba thế giới là thiên đàng, trần gian và âm phủ, trở thành "sứ giả của ba thế giới". Ấn Độ giáo tin rằng nước chảy có sức mạnh thanh lọc nhất, nó có thể hấp thụ bụi bẩn, rác rưởi và mang chúng đi. Là một nguồn năng lượng liên tục, chuyển động và không thể dự đoán được, sông Hằng được coi là biểu hiện sức mạnh của thần hủy diệt Shiva ở cõi trần gian. Thông qua nước sông Hằng, người ta có thể cảm nhận, thưởng ngoạn và hấp thụ năng lượng của thần Shiva.

Chúng ta luôn cảm thấy Ấn Độ là một đất nước rất kỳ lạ, và nó dường như không tương thích với nền văn minh hiện đại. Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn lâu đời nhất. Nó có thể có nguồn gốc từ bốn nghìn năm trước. Thế giới quan của người Hindu cũng dựa trên một số cách hiểu tương đối sơ khai về thế giới. Điểm cốt lõi có thể được tóm tắt thành bốn điểm - linh hồn là tồn tại vĩnh viễn, vạn vật đều có hồn, thiện ác quả báo, và luân hồi chuyển kiếp. Dưới sự chỉ dẫn của thế giới quan này, chắc chắn sẽ có một số hành vi và hiện tượng mà người ngoại đạo không hiểu được.

Hàng ngàn năm lắng đọng của lịch sử đã tạo nên đất nước kỳ diệu này. Ấn Độ có thể được mô tả như một nơi mà người ta vừa yêu vừa ngần ngại. Nền văn hóa tôn giáo giao thoa phức tạp đã hình thành một cảnh quan nhân văn đầy màu sắc, và dòng chảy văn minh kéo dài hàng nghìn năm đã để lại những chùa chiền, cung điện với khung cảnh nguy nga ngoạn mục. Với sự quy tụ của các chủng tộc khác nhau, va chạm vào nhau tạo thành ánh sáng văn hóa đặc trưng ở đây khiến vùng đất chưa bao giờ yên tĩnh này trở nên đông đúc, lộn xộn, thánh thiện và đầy màu sắc...

Tuỳ bút của Phó Đức An