Nguyên tắc quốc tế về xác lập chủ quyền lãnh thổ

- Thứ Hai, 14/10/2019, 08:12 - Chia sẻ
Khi xem xét quyền thụ đắc lãnh thổ của một quốc gia đối với một vùng lãnh thổ đang có bất đồng về chủ quyền quốc gia, thông thường người ta phải so sánh, đánh giá các nguyên tắc pháp lý được thể hiện trong lập trường của các bên liên quan.

Nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”

LTS: Lâu nay, chúng ta thường được tiếp cận với khá nhiều thông tin liên quan đến phạm vi và chế độ pháp lý của những vùng lãnh thổ quốc gia trong Biển Đông. Tuy nhiên, để bạn đọc nhận thức một cách thống nhất, chính xác, cụ thể về các thông tin quan trọng này, nhất là trong tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp và căng thẳng như hiện nay, Báo Đại biểu Nhân dân xin giới thiệu bài viết của TS. Trần Công Trục - nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.

Trên thế giới đã có rất nhiều cuộc tranh chấp chủ quyền lãnh thổ xảy ra giữa các nước. Các cuộc tranh chấp này đã kéo dài nhiều năm với nhiều quan điểm và nguyên tắc, chứng cứ lịch sử khác nhau giữa các bên. Để giải quyết một cách triệt để tranh chấp lãnh thổ giữa các nước, Hội nghị về châu Phi giữa 13 nước châu Phi và Hoa Kỳ năm 1885 và sau khóa họp của Viện Luật pháp quốc tế ở Lausanne, Thụy Sĩ, năm 1888, các nhà khoa học cũng như phần lớn quốc gia trên thế giới đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ mới. Đó là nguyên tắc “chiếm hữu thật sự”. Đây cũng là nguyên tắc pháp lý mà Việt Nam đã dựa vào để chứng minh và khẳng định Việt Nam có chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông.

Nội dung chủ yếu của nguyên tắc “chiếm hữu thực sự” trong luật pháp quốc tế như sau: Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành; Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (res nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto). Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp; Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó; Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này, nên mặc dù Công ước Saint Germain ra đời ngày 10.9.1919 tuyên bố hủy bỏ Định ước Berlin năm 1885 vì lý do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Chẳng hạn, Tòa án Trọng tài Thường trực Quốc tế The Hague tháng 4.1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan; phán quyết của Tòa án Quốc tế của Liên Hợp Quốc vào tháng 11.1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrehous…

Gần đây hơn, Tòa án Công lý Quốc tế đã quyết định cho Malaysia thắng trong vụ kiện với Indonesia vào tháng 12.2002 về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì Tòa nhận thấy rằng Malaysia đã thực hiện thường xuyên một loạt hoạt động của Nhà nước.

Đây là nguyên tắc pháp lý mà Việt Nam đã dựa vào để chứng minh và khẳng định Việt Nam có chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông. Bởi vì, Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo này từ khi chúng còn là đất vô chủ, chí ít là từ thế kỷ thứ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở 2 quần đảo này là rõ ràng, liên tục, hòa bình, phù hợp với nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện hành - nguyên tắc chiếm hữu thật sự - của Công pháp quốc tế. Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để chứng minh và bảo vệ chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo này qua các thời kỳ lịch sử.

 Suốt trong 3 thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, dù trải qua 3 triều đại khác nhau, Việt Nam đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình, với tư cách là Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Đội Hoàng Sa là một tổ chức do nhà nước lập ra để quản lý, bảo vệ, khai thác 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, về sau lập thêm Đội Bắc Hải do Đội trưởng Đội Hoàng Sa kiêm quản, đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy, không gặp phải bất kỳ sự tranh chấp, phản  kháng nào.

Trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ hết sức quan trọng không thể không đề cập khi chứng minh nhà nước phong kiến Việt Nam đã quản lý thật sự hiệu quả đối với 2 quần đảo này. Đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy giờ. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa (Ngãi), lúc là phủ khi thì trấn: “Bãi Cát Vàng trong phủ Quảng Nghĩa” (Toản tập Thiên Nam Tứ chí Lộ đồ thư); “Hoàng Sa ở phủ Quảng Nghĩa, thuộc dinh Quảng Nam, huyện Bình Sơn, xã An Vĩnh” (Phủ biên Tạp lục của Lê Quí Đôn); sang thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa đổi thành phủ Hòa Nghĩa. Thời nhà Nguyễn, Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

Kế tiếp thời kỳ nhà nước phong kiến Việt Nam, với tư cách là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại theo Hiệp ước Patenotre 1884, chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng thủ tục pháp lý đương đại.

Đến thời kỳ Việt Nam tạm thời chia 2 miền Nam Bắc, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vỹ tuyến 17 nên các chính thể ở miền Nam Việt Nam, với tư cách là những thực thể có tư cách pháp lý trong quan hệ quốc tế, đã tiếp tục bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1954 - 1975. Các chính thể miền Nam Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước, cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Từ ngày 13 - 28.4.1975, các lực lượng Quân giải phóng nhân dân Nam Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa.

Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất được bầu ngày 25.4.1976, đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bằng nhiều hoạt động, vừa bảo đảm đầy đủ và đúng thủ tục trên phương diện đấu tranh pháp lý, vừa củng cố và duy trì sự hiện diện của quân và dân trên các thực thể địa lý đang đặt dưới sự quản lý của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.


Năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực đã bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc

Nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc - căn cứ mơ hồ và vô giá trị

Trong khi đó, để thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm và tạo ra tình trạng tranh chấp chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa vào những năm 1909, 1956, 1974 và một số thực thể ở quần đảo Trường Sa năm 1946, 1950 (Trung Hoa Dân Quốc) và năm 1988 (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).

Để biện minh cho hành động xâm chiếm bằng vũ lực đó, phía Trung Quốc lập luận rằng Trung Quốc có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (mà phía Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa). Họ khẳng định rằng, tổ tiên người Trung Hoa từ hàng nghìn năm nay trong lịch sử đã phát hiện, khai phá, chiếm hữu, thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo này. 

Đây chính là sự ngụy biện theo nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” mà chúng ta đã nhiều lần được nghe. Vin vào lập trường này, Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách, viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng, theo quan điểm của ông Lý Lệnh Hoa, một chuyên gia nổi tiếng về Công pháp quốc tế người Trung Quốc, thì: “Chứng cứ (lịch sử) đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa (Trường Sa), chúng ta không có được điều đó…”.

Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư công pháp quốc tế và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội Luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác, nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khám phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này”.

Như vậy, có thể khẳng định rằng nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” là vô giá trị, nếu không muốn nói đó là quan điểm rất nguy hại, gây bất ổn cho sự tồn tại hiện thời, hợp pháp của các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, nếu chỉ căn cứ vào lịch sử thì nhiều quốc gia sẽ không tồn tại như ngày nay, kể cả nước Trung Hoa.

Bất chấp sự thật nói trên, để biện minh cho những hành động từng bước dùng vũ lực xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa vào các thời điểm năm 1909 (Tổng đốc Lưỡng Quảng), năm 1956, 1974 (CHND Trung Hoa) và một phần quần đảo Trường Sa năm 1946 (Trung Hoa Dân Quốc), 1988 (CHND Trung Hoa), phía Trung Quốc đã và đang sử dụng nhiều thủ đoạn về chính trị, pháp lý, truyền thông, các diễn đàn khoa học, các dự án kinh tế… để “giành lấy sự công nhận trên thực tế cũng như các bên liên quan khác về lập trường “chủ quyền lịch sử” mơ hồ và sai trái của họ.

Xuất phát từ những bài học rút ra từ thực tế đấu tranh bảo về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, cả trên mặt trận an ninh quốc phòng, lẫn trên mặt trận ngoại giao, pháp lý, truyền thông, cần thận trọng khi sử dụng các tài liệu lịch sử, bản đồ có liên quan đến 2 quần đảo.

Đó là bởi: không phải bất cứ  tư liệu lịch sử và bản đồ nào cũng đều có giá trị pháp lý để chứng minh và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này. Chỉ có những tư liệu lịch sử và bản đồ có giá trị pháp lý (nghĩa là các tư liệu do hệ thống tổ chức nhà nước có thẩm quyền ban hành) mới được coi là những chứng  cứ pháp lý.

Tòa Trọng tài bác bỏ yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc

Năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực tại The Hague (Hà Lan) ra phán quyết bác bỏ “quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với yêu sách “đường lưỡi bò”.

Những điểm chính trong phán quyết từ Tòa Trọng tài như sau:

- Trung Quốc không có “quyền lịch sử” đối với Biển Đông
- “Đường lưỡi bò” do Trung Quốc tự vẽ ra không phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
- Không có thực thể nào ở quần đảo Trường Sa có thể mang lại vùng đặc quyền kinh tế cho Trung Quốc
- Trung Quốc can thiệp vào quyền đánh bắt cá của ngư dân Philippines, đặc biệt là ở bãi cạn Scarborough
- Trung Quốc gây thiệt hại đến hệ sinh thái quần đảo Trường Sa bằng các hoạt động như khai thác quá mức, xây đảo nhân tạo
- Các hành động của Trung Quốc làm gia tăng khả năng xảy ra xung đột với Philippines

TS. Trần Công Trục - Nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ